>

ĐẠO CHỈ CỦA KINH DỊCH - dịch học nhập môn


Đề tài cũng như phạm vi, mục đích của Dịch Kinh thực là bao la vĩ đại. Thực vậy, Dịch Kinh muốn bao quát cả Vạn Tượng, Vạn vật, Vũ trụ, quán thâu tất cả các định luật của trời đất, vì thế Hệ Từ thượng đã viết Dịch dữ thiên địa chuẩn. Sở dĩ Kinh Dịch trở nên khó hiểu, chính là vì ta muốn hiểu từng chi tiết vụn vặt của sách. Cho nên muốn có ít nhiều ý niệm đơn giản, nhưng chính xác về Dịch, ta phải xét Dịch một cách tổng quát, đại cương về ít nhiều phạm vi như Triết học, Luân lý, và Đạo giáo.
TIẾT I. DỊCH KINH VỚI TRIẾT HỌCA. DỊCH KINH VỚI KHOA SIÊU HÌNH HỌCa/. - Quan niệm nhất thể vạn thù
b/.- Quan niệm vạn vật tuần hoàn chung nhi phục thủy của Dịch Kinh
c/. - Hai áp dụng quan trọng của Dịch lý nói trên.
B. DỊCH KINH VỚI KHOA LUẬN LÝ HỌC
1.- Dịch Kinh với khoa luận lý học hình thức Âu Châu
I
II
III
IV
1/ Kiền  2/ Cấu  3/ Độn
 
 4/ Bĩ   5/ Quan   6/ Bác
 
7/ Tấn
 
8/ Đại hữu
 Kiền khí bị tiêu hao dần
 Một sự biến thiên điên đảo lớn xảy ra:
1/ Nội quái ở I biến thành ngoại quái ở II
2/ Ở II, ta thấy nội Quái thuần có Khôn
 Giai đoạn phục hồi bắt đầu
 Ở IV ta lại thấy Nội Quái là Kiền. Như vậy Kiền phục hồi nguyên thể.
2.- Ít nhiều định luật quan trọng của Dịch
Về phương diện triết học, Dịch đã khảo sát vũ trụ, về cả hai phương diện Biến với Hằng.
Dịch bàn về Thái Cực tức là bàn về Bản thể hằng cửu, siêu không gian, thời gian.
Dịch bàn về Hào, Quải là bàn về Vạn vật, Vạn Hữu, bàn về Hiện tượng (phénomènes), bàn về các hình thức biến hóa trong trời đất, bàn về sự di động biến thiên trong thế giới.
Chu Hy viết: Thái Cực là Đạo, thuộc Hình nhi thượng.(tức là Thái Cực là Bản Thể, là Tuyệt đối siêu xuất hình tướng.)
Âm Dương là khí dụng, thuộc hình nhi hạ (tức là thuộc hữu vi, hữu tướng). Cho nên, đứng về phương diện biến thiên, hiện tượng mà xét, thì ta thấy động tĩnh không đồng thời, Âm Dương không đồng dấu vết, nhưng nguyên lý về Âm Dương, động tĩnh đều đã hàm ngụ đầy đủ bên trong [1] Tiên Nho cho rằng: Khi bản thể còn tịch nhiên chưa hiển dương, chưa biến hóa thì gọi là Tiên Thiên. [2] Khi đã phát lộ thành hình tượng thì gọi là Hậu Thiên.[3]
Theo luận cứ này, thì Thái Cực thuộc Tiên Thiên. Vạn Tượng, hay Âm Dương, Hào, Quải thuộcHậu ThiênTiên Thiên vô hình tướng, Hậu Thiên hữu hình, hữu tướng [4]
1.- Thái Cực (Vô Cực), hay Lý là Bản thể muôn vật, Tuyệt đối, siêu thời gian, không gian, tiềm tồn (Substance, Forme, Essence, Noumène, Ousia. Phùng hữu Lan dùng chữ Subsist.)
2.- Âm Dương nhị khí, Hào, Quải tượng trưng cho Vạn Vật, Vạn Tượng thuộc Hình nhi hạ, là phầnkhí dụng, là Hiện tượng biến thiên, lệ thuộc không gian, thời gian. (Accident, contigent, phénomène, existence, matière. Phùng hữu Lan dùng chữ Exist) [5]
Nói cách khác, Dịch cho rằng dưới mọi hình thức biến thiên của vũ trụ, còn có một bản thể bất biến. Đó là Vô Cực, hay Thái Cực. Vạn Vật biến thiên bên ngoài chẳng qua là những hình thái biến thiên của bản thể ấy. [6]
Từ một bản thể, vạn vật càng ngày càng sinh hóa, càng ngày càng phân tán, càng ngày càng trở nên phiền toái, phức tạp, sinh ra muôn ngàn lưu phái, muôn ngàn chi diệp, tung tỏa ra cùng khắp đất trời.
Tuy nhiên muôn muôn ngàn ngàn hình thức thù tạp bên ngoài ấy vẫn cùng chung một gốc gác mà thôi. Các đồ bản của Dịch, hoặc viên đồ, hoặc hoành đồ cũng đều gợi cho ta ý niệm ấy. [7]Để mô tả quan niệm Một bản thể duy nhất sinh Vạn Tượng, Vạn Hữu, Dịch dùng hai phương pháp:
1). Từ ngữ
2). Biểu tượng.
Về từ ngữ, Dịch chỉ nói vắn tắt như sau: Dịch hữu Thái Cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng v.v.. (Hệ từ thượng chương XI).
Khoa Luyện đơn cổ Ai Cập cũng có quan niệm tương tự. Ai Cập xưa cũng chủ trương: Thoạt kỳ thủy, có một nguyên chất bất diệt làm căn bản cho vạn vật. Nguyên chất ấy sinh ra hai chất gọi là Diêm (Soufre), và Cống (Mercure). Diêm, Cống sinh Tứ Tượng là Địa, Thủy, Hỏa, Khí [8]
Dịch ghi quan điểm trên bằng biểu tượng sau:
Khoa chiêm tinh học và Luyện đơn Âu Châu ghi quan điểm trên như sau
 
Cả hai đồ bản trên cũng vẫn chỉ là: Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng...
Từ hơn một thế kỷ nay quan niệm nhất thể vạn thù của Đông phương đã lan tràn vào lãnh vực Triết học, Khoa học Âu Châu.
Thuyết tiến hóa của Lamarck, Darwin căn cứ trên nguyên lý nhất thể, vạn thù, để biện minh rằng Vạn Hữu đã tiến tới ngày này nhờ sự biến hóa từ một sinh cơ, sinh vật đầu tiên. [9]
Weissmann chủ trương vạn sự đã tiềm ẩn trong cái trứng nguyên thủy. [10]
Georges LemaÛtre chủ trương vũ trụ đã xuất sinh từ một hồn khối nguyên thủy mà ông mệnh danh lànguyên tử nguyên thủy[11]
Werner Heisenberg, một nhà Vật Lý học trứ danh chủ trương trong quyển La Nature dans la Physique contemporaine đại khái như sau:
Vũ trụ vạn vật tuy có 92 nguyên tố khác nhau, nhưng rút cục chỉ có ba là:
Dương điện tử (positron)
Âm điện tử (électron)
Trung hòa tử (neutron)
Nhưng Dương điện tử, Âm điện tử, Trung hòa tử chung qui vẫn chỉ là một Nguyên khí. Cho nên vũ trụ thật ra chỉ có một Nguyên khíNguyên chất nhưng có thể ở trong nhiều trạng thái khác nhau. [12]
Nếu Dịch chỉ chủ trương có một chiều biến hóa từ Thái Cực đến Vạn Hữu, từ nhất đến vạn, từ giản đến phiền thôi, thì chẳng có gì là cao đẹp, vì đó chỉ mới là chiều sa đọa, phá tán, tử vong của trời đất, chưa nói lên được chiều hòa hợp, đoàn tụ, siêu thăng, sinh tồn của vạn vật, chưa nói lên được nỗ lực của Vạn Hữu luôn luôn muốn vươn lên để trở về với Thái Cực.
Nhưng thực ra, Dịch không quan niệm biến hóa một chiều, và cho rằng khi vũ trụ đã biến hóa, đã phân tán đến cực độ, sẽ xoay chiều, đổi hướng, bước dần lên những nấc thang tinh thần để cuối cùng lại phục hồi Nguyên bản.
Nói cách khác, vũ trụ biến thiên không phải là theo một đường thẳng vô cùng tận, nhưng theo hai chiều Âm Dương, vật chất, tinh thần vãng lai, phản phúc để cuối cùng lại trở về Nguyên bản. Quan niệm trọng đại này đều được các tiên hiền cả Nho lẫn Lão công nhận.
Văn đạo tử viết: Mới đầu từ trong thuận hành mà sinh, cuối cùng lại trở lại để về ẩn tàng tại Trung điểm, Trung Hoàng Thái Cực, tìm ra được bản lai diện mục của mình. [13]
Lưu nhất Minh viết: trong quyển Tu chân biện nạn hậu biên tu chứng như sau: Dịch nói: Nguyên thủy phản chung, thế là biết lẽ tử sinh. Mạnh Tử nói: Bậc trí giả để ý suy cứu căn do, còn Thánh nhân để ý tìm cho ra cùng đích cuộc đời. Cho nên đạo cả của Thánh Hiền có đầu có đuôi, có gốc có ngọn. Biết được đầu, hay được cuối, khảo được gốc, cùng được ngọn, mới có thể thông suốt tòng đầu tuyệt vĩ, quán triệt, đại giác, đại ngộ... Giả sử còn có điều mịt mờ, thì ắt hành động sẽ mò mẫm, biết đã không đúng, thì làm sẽ ngắc ngứ không thông. Học giả phải cùng kỳ lý, rồi mới có thể đem ra mà thi hành áp dụng. Biết đến kỳ cùng, làm tới hoàn mỹ, đó là hai phương diện cần yếu, không thể nào không có được. Mà  ấy chẳng qua là Đạo của trời đất, của Tạo hóa. Đạo của Tạo hóa có thể, có dụng, có đầu có đuôi, là môi trường cho Âm Dương đắp đổi, vận hành đổi thay, tiêu trưởng, biến hóa ở bên trong, nhưng mà chốt then quan hệ nhất, tâm điểm của tất cả mọi biến thiên, vẫn là Chân Nguyên nhất khí, vẫn là Thái Cực hư vô, vô hình, vô tượng... Hiểu được điều này, lập tức sẽ lên tới bậc Thánh Hiền, không hiểu nổi điều này, sẽ phải trầm luân muôn kiếp. Cùng lý tức là hiểu biết thấu đáo căn bản này vậy... [14]
Trương Tải viết: Thái Hư không thể không có khí. Khí không thể không tụ thành vạn vật. Vạn vật không thể không tán để trở thành Thái Hư... Sự tuần hoàn, xuất nhập bắt buộc phải như vậy. [15]
Nguyễn Án Trường, tác giả tập Tạo hóa thông cho rằng: Thái Cực là một vậy. Vạn vật bắt đầu từ một, và kết thúc ở một. Trang Tử gọi thế là xuất cơ, nhập cơ... [16]
Nhìn vào hoành đồ của Dịch ta thấy ý niệm Thái Cực xuất sinh vạn vật được phát biểu bằng phương thức: Thái Cực sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng; Tứ Tượng sinh Bát Quái; Bát Quái sinh Lục Thập Tứ Quái... Muốn suy ra chiều phản hoàn của vạn vật ta chỉ cần đọc ngược từ 64 quẻ trở về dần cho tới Thái Cực.
Nguyễn Án Trường viết: Dịch nói nguyên thủy phản chung. Thế tức là nói rằng từ những Quải thể vô cùng phức tạp quay trở về 64 quẻ, từ 64 trở về 8; 8 trở về 4; 4 trở về 2, 2 trở về 1; thế tức là thuần Kiền vậy, thế tức là Chân Như bản thể vậy. [17]
Nguyễn Án Trường cho rằng vạn vật trở về thuần Kiền tưởng cũng chưa được đúng vì như vậy vẫn còn nằm trong vòng hình Tượng, Hào, Quải. Phải trở về Kiền Sơ, tức là phải trở về Thái Cực vô hình tượng mới đúng.
Minh Đạo Thiên viết:
Xem Kiền từ thủa chửa thành hình,
Một nét thành rồi, vạn vật sinh [18]
Như vậy, cuộc biến Dịch tuần hoàn trong vũ trụ thực là giản dị. Ta có thể theo dõi sự diễn biến ấy từ đầu đến đuôi được. Tất cả chỉ là một nguồn sinh lực diễn biến dần dà từ Trung tâm ra tới các tầng lớp bên ngoài, rồi lại chuyển hóa xoay mình băng qua các tầng lớp biến thiên từ ngoài vào trong, cho tới trung tâm nguyên thủy, tạo thành một vòng sinh hóa có giới hạn, có tiết tấu, mạch lạc, có nguyên ủy, thủy chung. Vòng đại tuần hoàn của vũ trụ chẳng qua cũng như tình non nước, mà Tản Đà đã ngâm vịnh bằng những lời thơ đẹp đẽ như sau:
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa,
Non cao đã biết hay chưa?
Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nuớc kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non, nước nước, chưa nguôi lời thề. (Tản Đà)

Dịch ghi chú định luật tuần hoàn phản phúc, nhất biến vạn, vạn qui nhất bằng đồ bản Dịch Tiên
Thiên 8 quẻ, hay 64 quẻ.
Tu chân bất tử phương có lời rằng: Trước xuống sau lên định một vòng. Ý muốn nói vòng tuần hoàn của trời đất phải là Âm trước, Dương sau, nghĩa là mới đầu tinh thần phải nhập thể, phải lồng vào vật chất mới giúp cho tinh thần siêu thăng dễ dàng được. [19]
Chiêm tinh học Âu Châu mô tả quan niệm trên bằng những lời lẽ sau: Nguyên động lực tự phối ngẫu để biến từ thế tiềm phục đến thế hiểu hiện; từ nhất đến vạn, từ vô tướng đến hữu hình; từ tinh thần đến vật chất, từ thế giới vô sắc tướng đến thế giới hình tướng, từ khinh thanh đến trọng trọc. Trên đoạn đường thoái hóa này, thần khí càng ngày càng ẩn áo sau nhiều bức màn hiện tượng dày đặc cho đến vật chất. [20] Khi đã đến điểm thấp nhất của chu kỳ, thần khí hay Đạo lại lộn ngược lại, băng qua nhiều lớp lang hình thể càng ngày càng khinh thanh, tiến dần về các giới vô hình, vô tướng, để trở về trạng thái duy nhất bản nguyên. Đó là ý nghĩa vũ trụ của vòng Hoàng Đạo.[21]
1.)- Vạn vật khác nhau về hình tướng, giống nhau về bản thể. Như ta đã thấy vũ trụ là do một Nguyên thể phát sinh. Đã cùng một nguồn gốc phát sinh ắt phải giống nhau về bản thể. Đã biến hóa nhanh chậm khác nhau, ắt phải khác nhau về hình thức, về địa vị, về công việc, về giòng giống, về thời gian, không gian, về trạng thái tâm thần.
Nho gia nói: Nhất Thể vạn thù
Đạo gia nói: Nhất Bản vạn thù [22]
Dương Hùng nói: Đồng Bản ly mạt [23]
Theo quan niệm này thì con người và vũ trụ đều họp lại thành một Đại thể, đều cùng chung một bản thể, một Thái Cực, và vì vậy có ảnh hưởng mật thiết với nhau. Mặt trời, mặt trăng, tinh tú biến động, cũng làm cho đời sống con người biến động, đổi thay. [24]
2).- Lịch sử con người cũng diễn biến theo hai chiều thuận nghịch để cuối cùng lại phục hồi Nguyên thể.
Áp dụng Dịch lý tuần hoàn vào lịch sử con người, ta thấy rằng, nếu con người từ Nguyên thể phát sinh ắt sẽ phải biến thiên tiến hóa qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm, vãng lai, phản phúc để cuối cùng có thể phục hồi Nguyên bản.
Sự biến Dịch trong trời đất và của nhân quần nhờ vậy sẽ có một ý nghĩa vô cùng cao đẹp, là biến hóa để phát triển; phát triển để cải thiện, cải thiện để đạt tới Hoàn Thiện, trở về Nguyên Thủy Hoàn Thiện.
Dịch viết: Càn đạo biến hóa các chính Tính Mệnh bảo hợp Thái hòa. Đạo Trời biến hóa để thực hiện Thiên Tính, Thiên Mệnh, rốt ráo là để hợp nhất với Thái Hòa [25]
Tính mệnh Pháp quyết Minh chỉ cho rằng: Vạn Hữu rồi ra cũng đi đến sự hiệp hòa, đồng qui nhất thể.[26]
Lão Tử cũng viết:
Muôn loài sinh hóa đa đoan,
Rồi ra sẽ phải lai hoàn Bản nguyên[27]
Huỳnh Đình Kinh giải cho rằng:
Nhất bản phân tán ra thành muôn ngàn thù tạp, thù tạp rồi ra cũng quay về một gốc. Như vậy cả hình lẫn thần đều được phỉ nguyền và con người sẽ hợp nhất với Đạo thể, Chân thể. Dầu biến hóa mấy rồi cũng trở về Trung điểm, về Thái Nhất, về Thần.[28]
Hegel cho rằng vũ trụ chỉ là sự phát triển của ý thức.
Ý thức thì hằng cửu, nhưng nhân loại muốn tiến tới Ý thức hằng cửu phải phát triển, phải biến thiên, tức là phải có một lịch trình, lịch sử.[29]
Như vậy Dịch không quan niệm vũ trụ một cách cá nhân, cá tính, vụn vặt mà quên đại thể, toàn thể,[30]cũng như không quan niệm vũ trụ một cách toàn thể, đại thể mà quên cá nhân, cá tính.[31]
Trái lại Dịch bao quát cả hai phương diện toàn thể và chi tiết, tĩnh và động. Toàn thể là Thái Cực, chi tiết là Vạn Vật, là Hào Quải: Tĩnh là những nấc thang giá trị tinh thần và vật chất, Động là sự tiến triển biến hóa qua các nấc thang giá trị.
Toàn thể và chi tiết, vũ trụ, xã hội cá nhân hỗ tương ảnh hưởng để đạt tới Thái hòa. [32]

Dịch Kinh chủ trương Vạn Tượng biến thiên, vô thường, vô định, lại chủ trương mọi sự đều tương đối, Âm biến Dương, Dương biến Âm, cho nên dĩ nhiên Dịch Kinh trái ngược với khoa Luận Lý học hình thức Âu Châu. Luận Lý học hình thức (Logique formelle) vì chủ Tĩnh nên lấy nguyên lý đồng nhấtnguyên lý triệt tam (Principe d’identité et Principe du tiers-exclus) làm căn bản.
Theo những nguyên lý trên thì A=A, B=B
A không thể vừa là A, vừa là B.
Đó là một lối lý luận không đếm xỉa đến thực tại, đến thời gian, đến sức biến hóa của vạn vật.
Dịch Kinh trái lại chủ trương: với thời gian A biến thành B, B biến thành A, phản phúc, tuần hoàn vô cùng tận. Nhìn vào đồ bản Phân cung quái tượng thứ tự ở đầu sách Chu Dịch bản nghĩa, ta thấy quẻ nào biến hóa đến nửa chừng cũng biến thành quẻ đối lập, mãi tới chung cuộc mới phục hồi được nguyên bản. Ví dụ ta lấy quẻ Kiền (Càn), ta thấy nó biến hóa qua 8 giai đoạn như sau:


Nhìn vào đồ bản Phục Hi lục thập tứ quái phương vị, ta cũng thấy: Kiền biến hóa dần thành Khôn, Khôn lại biến hóa dần thành Kiền.
Luận lý học hình thức Âu Châu phân chia Vạn Hữu thành những thực thể đối lập nhau, và chủ trương đã chống đối thời không thể hòa hiệp được.
Ngược lại Dịch Kinh chủ trương mọi sự đối lập đều là tương đối, nhất thời, đều có thể hóa giải, trong cái xung khắc, vẫn có những yếu tố hiệp hòa.
Dịch Kinh chủ trương mọi sự trong vũ trụ đều sống động, uyển chuyển, biến thiên, liên tục. Những sự cứng cỏi, ù lì, bất động, gián đoạn là do trí não con người tạo ra. Muốn phô diển sự biến thiên uyển chuyển ấy, Dịch đã chủ trương Quẻ biến hóa, Hào biến hóa, Dương biến hóa, Âm biến hóa, không có gì là cố định trên vòng Dịch cả. Ngay đến thứ tự của 64 quẻ trong bộ Kinh Dịch cũng được xếp theo định luật Biến thiên điên đảo.
Ta thấy quẻ nào cũng có quẻ đối nhau hay là ngược nhau, từng đôi một.
Dịch Kinh chủ trương Âm Dương, trời đất, nam nữ tuy rằng khí chất, tính tình, hình thù ngược nhau nhưng thực ra đều góp phần vào trong một đại cuộc, một viễn đích.
Dịch viết: Trời đất nghịch nhau nhưng cùng chung một việc, trai gái nghịch nhau, nhưng thông cảm nhau bằng ý chí, vạn vật nghịch nhau nhưng đều góp phần công lao vào đại cuộc. Biết tùy thời sử dụng cả hai lực lượng chống đối mới là cao siêu vậy! (Thiên địa Khuê nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ Khuê nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật Khuê nhi kỳ sự loại dã. Khuê chi thời dụng đại hỹ tai. Khuê, Thoán truyện)
Tóm lại, nếu ta hiểu Dịch lý, và có một tầm mắt siêu không gian, thời gian, đồng thời bao quát không gian, thời gian, ta sẽ thấy:
- Lý tưởng (Idéal) là thực tại (Réel)
- Tiềm ẩn (Potentiel) là thể hiện (Actuel)
- Tương khắc (Contraires) là tương thừa (Complémentaires).
Nói thế, nghĩa là với thời gian ta sẽ thấy lý tưởng trở thành thực tại, uớc mơ trở thành thực tế, cái gì tiềm ẩn sẽ được hiệp hòa... Một lối nhìn, lối nghĩ chơ vơ không có không gian, thời gian, cũng y như con người không có xác thân, tuổi tác, một dân nước không có hoàn cảnh, lịch sử, là một sự kiện vô nghĩa lý, không thể hiểu được.
Những định luật quan trọng của Dịch là:
a).- Định luật biến Dịch tuần hoàn, biến Dịch có chu kỳ, chung nhi phục thủy, vô cùng vô tận, với những định luật phụ thuộc như vãng lai, tụ tán, phản phúc.
b).- Định luật Âm Dương tương thôi, Dương biến Âm, Âm biến Dương. Vì có sự biến chuyển Dịch nói trên, gần đây đã được các triết gia Âu Châu đề cập tới dưới hình thức này, hay hình thức nọ. Đã có ít nhiều nhà thiên văn học, triết gia bắt đầu nói đến sự biến Dịch tuần hoàn (loi de l’éternel retour) trong số có Nietzsche và Jean Charles Pichon. Định luật Âm dương tương thôi nhi sinh biến hóa đã trở thành biện chứng pháp của chủ nghĩa Karl Marx, vì biện chứng pháp lấy sự mâu thuẩn, chống đối làm động cơ đẩy và sinh xuất mọi biến thiên. Định luật Âm biến Dương, Dương biến Âm đã được xác định bằng phương trình của Einstein: 
E = MC2
(trong đó E là năng lượng
là khối lượng vật chất
C2 là tốc độ ánh sáng lên bình phương)

Về phương diện luân lý, Dịch chủ trương cái hay, cái dở trong vũ trụ đều tương đối, đều phát sinh từ Thái Cực và đều có thể giúp con người thực hiện sứ mạng của mình.
Hệ từ viết: Cát hung sinh đại nghiệp là vì vậy.
Quan niệm của Dịch nói trên cũng y thức như quan niệm của sách Ecclésiastique vì sách này cũng chủ trương:
Hay dở, sống chết, giàu nghèo, tất cả đều phát xuất từ Thượng đế. [33]
Dịch dạy phải Ức Âm, tiến Dương Nhàn tà tồn thành [34] tức là ngăn âm mà phò dương, bỏ điều xấu, giữ điều tốt, làm lành lánh dữ, khử nhân dục, tồn Thiên lý [35], và nhất là phải bắt chước Trời mà hành sự. Dịch viết: Trời hoạt động mạnh mẽ, nên người quân tử cũng phải gắng gỏi không ngừng [36]
Đọc Dịch ta thấy rất nhiều bài học luân lý. Xin đan cử ít nhiều ví dụ:
Bậc quân tử tiến trên đường nhân nẻo đức (Quân tử tiến đức, tu nghiệp - Văn Ngôn Truyện)
Quân tử kính cẩn, giữ lòng cho ngay chính (Quân tử kính dĩ trực nội - Văn Ngôn Truyện)
Bậc quân tử khiêm cung, ở dưới thấp để nuôi đức mình (Khiêm khiêm quân tử ti dĩ tự mục dã - Quẻ Khiêm)
Người quân tử, không lễ nghĩa không theo (Quân tử dĩ phi lễ phất lý - Quẻ Đại tráng)
Người quân tử sợ hãi và tu tỉnh (Quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh - Quẻ Chấn)
Người quân tử quay về tu đức (Quân tử dĩ phản thân tu đức)
- Người quân tử chấn áp điều xấu, khuyến khích điều tốt theo đúng mỹ ý của Trời (Quân tử dĩ át ác dương thiện, thuận Thiên hưu Mệnh - Quẻ Đại Hữu)
- Người quân tử muốn giáo hóa dân mãi mãi, muốn bao dung che chở nhân dân khắp mọi nơi (Quân tử dĩ giáo tư vô cùng, Dung bảo dân vô cương - Quẻ Lâm)
Người quân tử ghi nhớ lời trước, nết xưa để hàm dưỡng đức độ mình (Quân tử dĩ chí tiền ngôn vãng hạnh, dĩ súc kỳ đức - Quẻ Đại súc)
Người quân tử nói năng cẩn thận, ăn uống chừng mực (Quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực - Quẻ Di)
Người quân tử tha lỗi, xá tội (Quân tử dĩ xá quá hựu tội - Quẻ Giải)
- Người quân tử luôn đi trên đường nhân, nẻo đức và ra công dạy dỗ nguời khác (Quân tử dĩ thường đức hạnh, tập giáo sự - Quẻ Khảm)
Đọc các lời khuyên của Dịch, ta liên tưởng đến câu của Tăng Tử trong Luận ngữ:
Phu tử chi đạo Trung thứ nhi dĩ hĩ
Đạo của đức Khổng là Trung thứ mà thôi.
Trung là tận thiện mình,
Thứ là yêu người như mình.
Dịch cũng không dạy gì khác.
Tiêu Tuần gọi Dịch là một quyển sách dạy người sang sửa những lỗi lầm. Thực là chí lý vậy.

Về phương diện đạo giáo Dịch không chủ trương những hình thức phụng thờ bên ngoài, nhưng dạy con người:
1.- Phải bắt chước Trời mà hành sự [37]
2.- Phải tẩy rửa tâm hồn cho trong sạch, và phải tiến sâu về phía tâm linh. [38]
3.- Phải tìm cho ra nguyên lý bất Dịch của cuộc đời, thực hiện được Thiên Mệnh, hợp nhất với Thái hòa, với Trời, với Đạo. [39]
4.- Tóm lại, Dịch dạy ta phải biết chuyển hóa nội tâm để trở nên Siêu nhân, Thần nhân. [40]
Đạo của Dịch đòi hỏi sự minh triết, vì có hiểu biết đâu là Nguyên bản, thì mới có thể trở về Nguyên bản được. Người xưa gọi thế là minh thiện, phục sơ [41]
Dịch đã vạch cho biết Thái Cực là căn bản của vạn vật, cũng như của con người và cho biết sự chia ly, phân tán, đa đoan, phiền tạp chỉ làm cho ta xa rời Đạo thể; như vậy tức là đã mặc nhiên chỉ vẽ cho con người biết bổn phận mình là phải tìm về căn bản, hợp nhất với căn bản, bằng cách tổng hợp mọi qua phân, xóa bỏ mọi phiền tạp, sống đơn sơ, thanh thản. Nương theo ý Dịch, Ngộ Chân Trực Chỉ đã có thơ:
Tứ tượng hội thời Huyền thể tựu,
Ngũ hành toàn xứ Tử kim minh,
Thoát thai, nhập khẩu thân thông thánh,
Vô hạn long thần tận thất kinh[42]
Căn bản của vạn vật, cũng như của con người chẳng có ở đâu xa: căn bản ấy ở ngay giữa lòng biến thiên, cũng như ở giữa lòng con người.[43] Cho nên, nếu con người muốn khế hợp với Thiên chân, với Thái Cực, chỉ cần hồi quang phản chiếu, đi sâu vào chiều hướng tâm linh, định thần, phát huệ [44]
Tất cả những nguyên tác ấy đã được các Đạo gia, Đơn gia áp dụng vào công cuộc tu thân. Đối với Thánh Hiền Trung Hoa thì:
1.- Tìm ra Đạo, ra Lý, ra Nhất mới là vấn đề trọng đại[45]
2.- Các hình thức, các hoạt động, các thành tích bên ngoài chỉ là tùy thuộc.[46]
3.- Thực hiện được đạo lý mới là quan hệ, mới là mục phiêu của cuộc đời. Thế là đắc Đạo, đắc Nhất[47]
Tính mệnh Pháp Quyết minh chỉ cho rằng: Tam giáo cũng đều qui về Nhất. [48]
Các Đạo gia luôn luôn ao ước:
- Trở về được với Nguyên bản, đạt được tới Đạo thể[49]
- Kết hợp với Đạo với Trời[50]
Phùng hữu Lan viết:
Chân nhân quay về nguồn gốc sinh ra mình tức là Thái Nhất; như thế là trở nên đồng thể với trời đất, vạn vật. [51] Đạo gia cho rằng: Âm dương có hợp nhất mới thành được Dịch, được Thái Cực.
Âm + Dương = Dịch
Âm + Dương = Thái Cực[52]
Cũng một lẽ tâm hồn hay thần khí có hợp nhất thì Đạo thể hay Thái Cực mới sinh. Đó là nguyên tắc căn bản của khoa luyện đơn, cầu trường sinh bất lão của Trung hoa.
- Thần + tâm = Đạo (Thái Cực)
- Thần + khí = Đạo (Thái Cực)
- Khảm + Ly = Đơn
- Duyên + Cống = Đơn[53]
Huỳnh Đình Nội Cảnh có câu: Nhất chí bất cửu thăng Hư Vô... và giải rằng:
Nhất tức là Hư Vô (Vô Cực, Thái Cực). Học Đạo cần phải chuyên nhất, hợp nhất với Thần Linh, như vậy có thể thành Thần Tiên vậy.
Trang Tử nói: Người nào biết Một, muôn việc đều xong[54]

Dịch với những Hào, Quải, với những lời Thoán, lời Tượng, chỉ có mục đích dạy ta ăn ở cho hợp Đạo Trời đất, hợp thời, hợp cảnh, hợp với thế thái, nhân tình.
Dịch chẳng những dạy ta nguyên lý và cùng đích của cuộc đời là Thiên mệnh, để thần thánh hóa bản thân, Dịch lại còn dạy ta cách tùy thời biến Dịch để theo Đạo, biến Dịch để cuối cùng hợp nhất được với Đạo.[55] Tóm lại, Dịch cho ta những nguyên tắc để sống một đời sống Lý tưởng, ngoài thì hòa nhân, thuận thế, hợp cảnh, hợp thời, trong thì phản thân, tu tỉnh[56] dữ Đạo hợp Chân, tưởng không còn gì đẹp đẽ hơn. Chúng ta chỉ đan cử ít nhiều thí dụ:
Dịch có Hào, Quải y như đời sống con người có nhiều hoàn cảnh khác nhau. Gặp mỗi hoàn cảnh, ở mỗi địa vị, làm mỗi công việc, đều phải có một thái độ khác nhau, một lối xử sự, thi hành khác nhau cho xứng thời, xứng vị, xứng sự v.v...
Gặp hiểm nguy đừng thất vọng, âu lo, hãy vững dạ tìm cách băng qua, y như dòng nước kẹt trong khe hẹp mà vẫn an nhiên, trôi chảy. Suy rộng ra, dẫu Thiên Chân, Thiên Tính của ta còn kẹt giữa những nhân dục, nhân tính, ta đừng có mất tin tưởng, phải vững dạ phấn đấu rồi ra sẽ thoát vòng (Khảm)[57]
Muốn theo Đạo Trời, muốn thực hiện Thiên Tính, Thiên Mệnh, phải dùng hết nghị lực, cố gắng tiến tới không ngừng, như Trời chuyển vận không hề ngơi nghỉ ( Kiền)[58]
Khi Thiên Tâm, Đạo Tâm vừa phát hiện, phải biết ấp ủ, chắt chiu, đừng vội đem dùng, để đến nỗi nó phải hư hao phát tán (Kiền, Sơ Hào)[59]
Ở đời cái gì cũng có duyên do, trước nhỏ sau to, trước yếu sau mạnh, như thoạt thấy sương giá phải đề phòng ngay chuyện nước sẽ đông. Suy ra, mình có thể ngăn chặn được trụy lạc, loạn ly, nếu biết ngăn chặn, từ khi chúng còn mầm mộng, trứng nước (Khôn, Sơ Hào)[60] Sống giữa biến thiên, gió giông, sấm chớp của cuộc đời, cần phải tìm ra những giá trị hằng cửu, mà làm nơi dừng chân, dừng bước (Hằng)[61]
Sống ở đời, phải có chỗ bám víu, dựa nương. Mặt trời mặt trăng nương tựa vào trời; cây cối, nương tựa vào đất; người quân tử phải nương tựa, bám víu vào sự công chính (Ly) [62]. Lẽ Dịch là hết đầy thời vơi, hết thịnh thời suy.
Trời đất, quỉ thần và nhân loại đều ghét sự cường thịnh sung mãn, và phù trợ, chúc phúc cho sự khiêm cung, cho nên người quân tử phải khiêm cung, mới làm nên đại nghiệp.[63]Nếu chúng ta đọc Dịch như vậy, Dịch sẽ trở thành pho sách đầy sự khôn ngoan, minh triết và đạo lý sâu xa.
Đọc Dịch để biết lẽ Dịch. Biết lẽ Dịch thì không còn sợ biến thiên, vì có biến thiên mới có thể tiến hóa và đạt Đạo, hợp nhất với Đạo.[64] Phải chăng đó là Đạo chung của Thánh Hiền thiên cổ. Cát Tiên Ông viết:
Thiên hạ vô nhị đạo,
Thù đồ nhi đồng qui.
Thánh nhân vô lưỡng tâm,
Bách lự nhi nhất trí [65]
Tạm dịch:
Đạo trong thiên hạ há pha phôi,
Đường nẻo khác nhau, đích chẳng hai,
Thánh Hiền sau trước lòng không khác.
Lo lắng trăm dường, mối một thôi.
Phù Hựu Đế Quân viết:
Thiện căn thâm xứ, tính căn tuyền,
Vạn pháp đồng qui, nhiệm tự nhiên,
Tính bản đồng nguyên, tâm các cụ,
Nhu tông hà chí dị Huyền, Thiền [66]
Tạm dịch:
Thiện căn, bản tính giữ chu tuyền,
Vạn Hữu quay về gốc tự nhiên.
Tính vốn một nguồn, tâm vẹn có,
Nhu gia nào khác với Huyền, Thiền[67]

Để tổng kết lại, ta thấy rằng Dịch là một cuốn sách quí báu:
1.- Dịch dạy ta nguyên ủy, thủy chung của vũ trụ và của con người, cho ta thấy nguồn gốc và định mệnh cao sang của mình[68]
2.- Dịch giúp ta đi sâu vào lòng vật chất, vũ trụ và lòng người để tìm ra căn bản, tinh hoa, cũng như những cơ cấu, những định luật chi phối mọi sự biến thiên tiến hóa[69]
3.- Dịch cho ta thấy 2 chiều hai mặt của vũ trụ, thấy nhẽ động tĩnh, biến hằng, và nghiên cứu những định luật, những then chốt chi phối cuộc biến thiên của vũ trụ.
4.- Dịch cho ta thấy vòng tuần hoàn của vũ trụ, và như vậy cho ta hi vọng lớn lao là trước sau cũng có thể trở về phối hợp với Thượng Đế.
5.- Dịch muốn giúp ta có một đời sống lý tưởng, tùy thời, tùy thế, thích nghi với hoàn cảnh, biết những nguyên tắc để tu thân, để có thể tinh nghĩa nhập thần tìm ra căn bản, nguồn gốc của mình, sống một đời sống siêu nhiên, phối hợp với Trời, với Đạo.
6.- Như vậy là Dịch muốn cho ta phát triển, biến hóa về mọi mặt, để toàn thân ta như cây đàn muôn điệu, phát sinh ra những âm thanh tuyệt diệu, có đủ nhanh chậm, bổng trầm theo đúng nhịp điệu, tiết tấu của đất trời. Nói cách khác Dịch muốn ta có đời sống hoàn toàn về mọi mặt, minh triết, khinh phiêu và hạnh phúc.

Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ & Huyền Linh Yến Lê
Chia sẻ ngay với bạn bè bài viết này
Facebook Pinterest StumbleUpon Delicious Reddit Digg Email Delicious

Không có nhận xét nào:

NHẬT KÝ WEBSITE

AM CÁC MINH - HỌC THUẬT và TÁC PHẨM

Loading...

THEO DÕI

| Copyright © 2013 BÁCH KHOA THƯ AM CÁC MINH