>

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC

1. GIỚI THIỆU VỀ ĐIÊU KHẮC
Nghệ thuật tạo hình đã gắn liền với lịch sử nhân loại từ thủa hoang sơ bằng
những bức bích họa trong các hang động, bằng những môtíp trang trí được chế
tác một cách thô sơ: vòng tay, vòng cổ, khuyên tai...
Với quá trình phát triển, yếu tố thẩm mỹ được nâng cao và được thể hiện
ngày càng quy mô và tinh xảo.
Lịch sử của nghệ thuật điêu khắc đã theo bước chân nhân loại để tạo nên
những nền nghệ thuật vĩ đại như Ai Cập cổ đại với những tượng danh tiếng của
lịch sử mỹ thuật như tượng Nhân sư khổng lồ, tượng Viên thư lại ngồi, tượng
“Ông trưởng thôn” hay tượng chân dung Hoàng hậu Nefertiti…Sau đó là nghệ
thuật Hy Lạp với những kiệt tác như những tượng thần Venus, tượng Laocoon,
tượng Nữ thần chiến thắng ... Rồi thời Phục Hưng đã làm cho nước Ý trở thành
trung tâm Mỹ thuật châu Âu với những tượng David, tượng Pieta, tượng Thần
đưa tin…Nghệ thuật Á Đông lại có đặc thù riêng và để lại cho nhân loại những
tác phẩm điêu khắc nổi tiếng về tôn giáo, trong đó điêu khắc Ấn Độ có ảnh
hưởng sâu rộng nhất. Riêng nghệ thuật điêu khắc của Việt Nam ta, kể từ thế kỷ
11 đã đạt đến trình độ nghệ thuật khá cao như các tượng La Hán ở chùa Tây
Phương, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp, hoặc những hình
trang trí độc đáo được chạm khắc trên đá, gỗ, gạch rất nhiều trên các lăng tẩm,
cung điện, chùa chiềng, đình làng. Góp mặt để làm phong phú thêm kho tàng
nghệ thuật điêu khắc đặc sắc của dân tộc là điêu khắc của dân tộc Chăm ở phía
Nam, dân tộc Ê Đê , Gia Rai, Ba Na…ở Tây nguyên. Cùng với sự phát triển
không ngừng của xã hội, rõ ràng điêu khắc là một bộ phận không thể tách rời của
cuộc sống loài người nói chung và nghệ thuật tạo hình nói riêng.
Điêu khắc là một loại
hình nghệ thuật của nghệ
thuật tạo hình. Khác với
hội họa là diễn tả không
gian ba chiều trên một mặt
phẳng, điêu khắc được thể
hiện bằng hình khối cụ thể
trong một không gian
nhiều chiều.


2. QUAN HỆ ĐIÊU KHẮC VỚI KIẾN TRÚC
Nói đến Điêu khắc là nói đến sự gắn kết giữa tượng, phù điêu và không gian
xung quanh nó. Nó tạo nên nét duyên dáng, tính hấp dẫn cho cảnh quan của một
phạm vi hẹp (cho một công trình kiến trúc) hoặc một phạm vi rộng (một
thành phố).
Hình và khối là ngôn ngữ của điêu khắc, ngôn ngữ phải có sự thống nhất
trong bố cục của tác phẩm và phù hợp với không gian xung quanh nó, tô
điểm cho không gian xung quanh nó, như vậy là mỗi đường nét, hình khối
của tác phẩm điêu khắc không chỉ làm đẹp cho riêng nó mà nó có giá trị tồn
tại được bởi sự kết hợp hài hòa, sự tương hỗ qua lại giữa nội dung, đường
nét, hình khối với vị trí của nó trong không gian.
Những bằng chứng cho thấy sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn để tạo nên
sự vĩ đại của những công trình kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc.
- Lăng mộ các
Pharaon (Ai Cập).
- Đền tháp Angco
(Campuchia)
- Đền Pantheon
(La Mã).
H9. Tượng Nhân sư trước
quần thể Kim tự tháp Gizeh,
Ai Cập cổ đại.
H10. Tượng mặt Phật
đền Bayzon, Campuchia.
H11. Đền Erechteyon, Hy Lạp cổ đại.
3. NGÔN NGỮ ĐIÊU KHẮC
Ngôn ngữ đặc thù của điêu khắc là khối và khối là chủ thể để tạo nên
sức sống cho một tác phẩm.

4. CÁC THỂ LOẠI ĐIÊU KHẮC
+ Tượng tròn.
+ Phù điêu.
+ Chạm lộng.
H12. Trần Văn Mỹ. Gia
đình thợ. 1983. Gò
đồng. Phù điêu.

H13. Đầu cầu thang Hiển Lâm Các,
Đại nội, Huế. Chạm lộng gỗ (trên).
H14. Phạm Văn Định. Cảm xúc. 1993. Gỗ.
Tượng tròn trong nhà (phải).
H15. Phạm Sinh. Hoa
tình yêu. Xi măng.
1993. Tượng tròn
ngoài trời.

5. CHẤT LIỆU ĐIÊU KHẮC
Chất liệu dùng cho điêu khắc vô cùng phong phú, từ chất liệu phổ biến
như: đá, xi măng, đồng, gỗ, gốm, thạch cao, tre, sỏi, nhựa, đất sét, cát thậm
chí là giấy...cho đến các vật liệu mới như nhựa tổng hợp …
H16. Brancusi. Cô Pagany H17. Phạm Hồng, Tượng đài. H.18. Diệp Minh Châu. Chị
1912. Đá trắng. Xi măng. Võ Thị Sáu. 1960. Đồng.
H19. Đinh Gia Lễ. H20. Vũ Tiến. Tâm linh 1. H21. Trần Thị Chúc. Bé phát biểu.
Hai người. 1996. Gỗ. 1996. Đất nung. 1990. Thạch cao.

H22. Chú bé lễ gai. H23. Phạm Nguyễn Minh Tiến. H24. Vua Tutankhamon.
Nhựa composite. Mẹ con. 2006. Đất sét. Ai Cập cổ đại. Vàng.
H25. Duchamp. Không khí H26. Duchamp. Nguồn nước. H27. Điêu khắc trên cát.
của Paris. Thủy tinh. Sứ.
H28. Hanson. Bà béo.Tượng được mặc áo
quần và tô vẽ như người thật.

6. DỤNG CỤ VÀ VẬT LIỆU DÙNG CHO ĐIÊU KHẮC
6.1. Dụng cụ: Gồm bàn xoay, bộ dao nặn có các dạng khác nhau, dùi đập
đất, compa.
+ Bàn xoay:
Thường làm 3 hoặc 4 chân, cao từ 1m đến
1,30m (tùy theo người sử dụng), chiều rộng
khoảng 40cm và mặt bàn này có thể xoay tròn
được để khi nặn tượng dễ kiểm tra các chiều.
Trên mặt bàn xoay thường có một tấm gỗ
kích cỡ tương đương dùng để làm đế cốt cũng
như khi nặn tượng mà không làm ảnh hưởng trực
tiếp đến bàn xoay.
H29. Bàn làm Điêu khắc. Có 3 chân, nhìn mặt bên.
+ Dao nặn:
Thường có 4 loại khác nhau tuỳ theo
mỗi chức năng, dài từ 20 đến 24cm và làm
bằng gỗ, tre tốt hay kim loại. Dùng giải
quyết và làm đẹp khối bộ phận tới chi tiết
nhỏ và có thể diễn tả được chất trơn nhẵn
hay thô ráp của khối điêu khắc.
Tùy mỗi người mà tự tạo ra những kiểu
dao nặn khác nhau ngoài 4 loại chính như
trên, để tiện sử dụng theo ý thích.
H30. Bàn làm điêu khắc 4 chân,
Sắt.
H31. Bộ dao dùng làm Điêu khắc.
Gỗ.

+ Dùi đập đất:
Dài 40cm, làm theo khối hình thang, dùng để đập từng cục đất nhỏ
vào cốt tượng và chia các mảng khối tượng.
H32. Dùi đập đất bằng gỗ.
+ Compa:
Làm bằng kim loại hay gỗ, dùng để đo kích thước từ mẫu tượng
thật sang bài nặn đang làm, có tác dụng giống như que đo trong vẽ mỹ
thuật.
6.2. Vật liệu: Gồm có đất sét, đất xi, nilon, thạch cao, đay (xơ), giây thép
nhỏ để quấn vào cốt thép lớn dùng làm cốt.
+ Đất sét:
Là loại tốt nhất để làm điêu khắc. Đất sét có đặc tính là rất dẻo, có
độ kết dính tốt, có độ mịn cao và giữ được nước lâu khi được ủ kín
bằng nilon.
+ Đất si:
Là loại đất hóa học, trong đất xi có dầu nên để lâu không khô, rất
tiện sử dụng nhưng lại hiếm, giá thành cao.
+ Nilon:
Dùng để ủ đất trước khi nặn cũng như ủ bài cho khỏi bị khô. Sau
mỗi ngày làm việc thì vẩy một ít nước vào bài rồi ủ kín bằng nilon để
giữ ẩm, nếu không ủ đất sẽ bị khô cứng rất khó nặn tiếp tục.
+ Thạch cao:
Là một chất liệu để rót vào khuôn đổ thành tượng. Bột thạch cao
có đặc điểm gần giống xi măng, khi gặp nước thì đông rắn lại ngay
(khoảng 5 phút) tuy nhiên không cứng bằng xi măng được.
+ Đay (xơ):
Ngoài đay ra còn có thể dùng xơ dừa để trộn lẫn vào thạch cao để
tượng thêm độ dai và chắc.
Chia sẻ ngay với bạn bè bài viết này
Facebook Pinterest StumbleUpon Delicious Reddit Digg Email Delicious

Không có nhận xét nào:

NHẬT KÝ WEBSITE

AM CÁC MINH - HỌC THUẬT và TÁC PHẨM

Loading...

THEO DÕI

| Copyright © 2013 BÁCH KHOA THƯ AM CÁC MINH