Mở đầu
Dịch là một cuốn sách được Thánh Hiền xưa nay sùng thượng. Nho gia coi Kinh Dịch như một Thánh kinh.
Đức Khổng học Dịch rất công phu. Ngài về già học Dịch, đọc Dịch, đọc đến ba lần đứt lề sách mới làm ra các thiên truyện. [1]Thế mà Ngài còn nói trong Luận Ngữ: Nếu Trời cho ta sống thêm ít năm nữa, cho ta học xong Đạo Dịch, thì ta có thể không phạm lỗi lớn nữa. [2]
Ngài đã viết Thập dực để bổ sung cho Dịch Kinh. Thập dực là: [3]
1. Thoán thượng truyện để cắt nghĩa Thoán từ ở Thượng Kinh. [4]
2. Thoán hạ truyện để cắt nghĩa Thoán từ ở Hạ Kinh.
3. Tượng thượng truyện để giải các Tượng trong Thượng Kinh.
4. Tượng hạ truyện để giải các Tượng trong Hạ Kinh. [5]
5. Hệ Từ thượng truyện
6. Hệ Từ hạ truyện
7. Văn ngôn truyện [6]
8. Thuyết quái truyện
9. Tự quái truyện
10. Tạp quái truyện
Trình Di viết Dịch truyện. Chu Hy viết Dịch kinh bản nghĩa, Dịch học Khải Mông. Thiệu tử nhân
đọc Chu Dịch đã viết thành bộ Hoàng Cực Kinh Thế.
Khảo thư tịch đạo Lão, ta thấy Đạo Đức Kinh, Xung Hư Chân Kinh, Nam Hoa Kinh có rất nhiều điểm liên quan với Dịch. Đạo gia, Đơn gia toàn áp dụng định luật Dịch để tu đức, luyện thần. [7] Ngụy bá Dương đã áp dụng Dịch lý viết thành bộ Tham Đồng Khế.
Nhìn sang phía Đạo Phật, ta thấy Vương Cảnh Mạnh lấy Thiền Tông minh Dịch, Thích Ngẫu Ích lấy Dịch lý áp dụng vào khoa Thiền học. [8] Hiện nay ta còn thấy những bộ như Dịch Học Thiền giải của Trí Húc Thiền sư v.v...
Giảng bình về Dịch xưa nay đã có hơn 700 tác giả.
Ví dụ:
+ Vương Bật chú giải Dịch
+ Mạnh Hỉ
+ Kinh Phòng đem các quẻ phối hợp với Thập Can gọi là Nạp Giáp.
+ Tuân Sảng lấy nhẽ thăng giáng để giải Dịch.
+ Lai Tri Đức lấy lẽ thác tống tức là Âm Dương điên đảo, vãng lai để giải Dịch.
+ Tiêu Tuần lấy lẽ bàng thông tức là Âm biến Dương, Dương biến Âm để giải Dịch. [9]
Ngoài ra còn có nhiều danh nhân, danh sĩ đã dùng Dịch để đoán định vị lai, trong số đó có: Trương Lương (Hán), Nghiêm Quân Bình (Hán), Chư Cát Lượng (Tam Quốc), Lý Thuần Phong (Đường), Viên Chính Cương (Đường), Thiệu Khang Tiết (Tống), Lưu Cơ (Lưu bá Ôn) (Minh). [10]
Dịch có ba loại:
1.- Liên Sơn lấy quẻ Cấn làm căn bản.
2.- Qui Tàng lấy quẻ Khôn làm căn bản.
3.- Chu Dịch lấy quẻ Càn làm căn bản.
Hiện nay Liên Sơn, Qui Tàng đã thất lạc [12], chỉ còn lại Chu Dịch.
Trịnh Huyền cho rằng: đời nhà Hạ có Liên Sơn, đời nhà Ân có Qui Tàng, đời nhà Chu có Chu Dịch.
Trịnh Huyền giải thích ba nhan đề ấy như sau:
- Gọi là Liên Sơn để tượng trưng cho mây từ đầu các ngọn núi bốc lên, miên man không ngừng.
- Gọi là Qui Tàng vì Vạn Vật đều tàng ẩn bên trong.
- Gọi là Chu Dịch vì biến dịch phổ quát không đâu không có. [13]
Hội ý tác giả, ta thấy rằng dẫu Dịch Kinh có thay tên, đổi quẻ, nhưng ý nghĩa và mục đích trước sau vẫn là một.
Dịch cốt bàn về Vạn Vật, Vạn Tượng liên tục biến thiên, phát triển như mây ùn ùn liên tục bốc lên từ những dãy núi xa xăm. Dịch bàn về sự biến thiên, mà biến thiên thì thường xuyên diễn biến khắp nơi trong vũ trụ. Nhưng sách Chính nghĩa không đồng quan điểm với Trịnh Huyền và cho rằng:
Sách Dịch thời Thần Nông gọi là Liên Sơn.
Sách Dịch thời Hoàng Đế gọi là Qui Tàng.
Sách Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch. Như vậy Chu Dịch là sách Dịch đời Chu, cũng như Chu Lễ, Chu Thư, v.v..[14]
Học Dịch phải tốn công phu. Có tốn công phu, mới tìm ra được cái hay, cái đẹp của Dịch. Dưới đây ta sẽ lần lượt khảo sát về chữ Dịch dưới nhiều tiết mục:
1.- Chữ Dịch theo Từ nguyên
2.- Dịch là biến Dịch
3.- Dịch là bất Dịch
4.- Dịch là giản dị
5 - Dịch là nghịch số
6 - Dịch là Tượng
Chương 1. Chữ Dịch theo Từ Nguyên
Học Dịch trước tiên cần phải hiểu chữ Dịch. Hiểu được chữ Dịch tức là đã hiểu được phần nào ý người viết sách. Bồ Điền Trịnh thị nói: Chữ Dịch do hai chữ Nhật Nguyệt tạo nên. Lý trong thiên hạ có thể tóm thâu trong một Chẵn một Lẻ. [15] Suy ra: Nhật là mặt trời, tượng trưng cho sự bất biến, Hằng Cửu, viên mãn. Nguyệt là mặt trăng, tượng trưng cho sự biến thiên, tạm bợ, khuy khuyết. Như vậy, chữ Dịch gồm trong thân cả 2 nguồn sinh lực tương đối, lẽ tôn ti của Âm Dương, lẽ biến hằng của vũ trụ, sự Hằng Cửu của Bản Thể do vừng Dương đại diện, và các trạng thái doanh hư, tiêu trưởng của Vạn Hữu, do vừng Nguyệt tượng trưng.
Như vậy, Dịch bao quát cả biến hằng, bao quát cả hiện tượng lẫn bản thể. Dịch là Toàn Nhất.
Chữ Dịch mà tách đôi sẽ thành ra Nhật, Nguyệt hai vừng, Âm Dương chia rẽ, nhật dạ cách trùng.
易 ➙ 日 + 月
Sự qua phân này sẽ là đầu dây mối rợ, sinh ra mọi hiện tượng trong trời đất. Dương là Càn, Âm là Khôn, nên Dịch cho rằng: Càn Khôn là cửa của Dịch. [16]
Mới hay: Một Dịch qua phân, hóa đất trời,
Đất trời cảm ứng, sẽ sinh sôi,
Sinh sôi, tạo tác, thành muôn vật,
Muôn vật chung qui một Dịch thôi.
Khi mà Nguyên Thể đã chia ly, phân tán, thì mầm đấu tranh, chống đối tự nhiên sẽ sinh ra. Đấu tranh, chống đối ấy xét về một phương diện là một động cơ hết sức hữu hiệu để sinh biến hóa, vì thế Dịch nói:Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa. [17]
Nhưng nếu chỉ thấy sự đấu tranh, chống đối giữa Âm Dương, thì mới thấy được chiều biến hóa đưa đến chia ly, chết chóc, đổ vỡ, mới thấy được có một chiều hướng của vũ trụ.
Ngoài chiều hướng trên, Vũ trụ cũng như Dịch còn có một chiều hướng thứ hai: là chiều Âm Dương tương sinh, tương thừa. Âm Dương vẫn có thể tiếp tay nhau, có thể thỏa hiệp, đoàn tụ, để làm nên đại nghiệp. Đây là chiều hướng xây dựng, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, cố hàn gắn lại những gì đã đổ vỡ, đoàn tụ lại những gì đã chia ly, tản lạc. Thánh Hiền cho rằng chiều hướng này mới là chính yếu. Các đạo gia lý luận một cách rất sâu sắc như sau:
Nếu Bản Thể vì qua phân nên đã thành Âm Dương, thành Vạn Hữu, thì ta cũng có thể phối hợp Vạn Hữu lại thành Âm Dương; phối hợp Âm Dương lại để thành Bản Thể. Mà Âm Dương chẳng qua là Thần Khí, Tâm Thần trong ta.
Tu luyện cho Tâm kết hợp với Thần, khiến cho Thần Khí hợp nhất, không để cho ngoại vật khiên dẫn, làm tản lạc ra bên ngoài; tu luyện Tâm Thần để trở thành Siêu Nhân, thành Tiên Thánh, đó là mục đích của công trình mà Đạo gia gọi là luyện đơn.
Đại đỗng Chân kinh viết:
Nhật Nguyệt hợp bão nhi thành Thái Cực. [18]
Theo Đạo gia, chữ Đơn chính là chữ Dịch biến thể, vì có đầu Nhật, mà chân là Nguyệt. [19]
Thế mới hay:
Một Dịch qua phân tạo đất trời.
Âm Dương cách trở, mới chia phôi
Tâm thần ví thể đoàn viên lại,
Thái Cực rồi ra sẽ rạng ngời.
Một chữ Dịch phân ra, thì thấy cách thức trời đất Vạn Vật phát sinh, thấy căn bản của Vạn Hữu; hợp lại thì thấy cùng đích muôn loài, thấy phương thức tu luyện để tiến tới Thần minh. Như vậy, chẳng phải là kỳ diệu sao?
Học Dịch để quán thông thượng hạ, vạn biến phùng nguyên, há chẳng phải là một công việc thích thú lắm sao?[20]
Chương 2. Dịch là biến thiên
Nếu chỉ dùng lý trí mà suy luận, chỉ dùng giác quan mà nhận xét, thì ta thấy Vạn Vật, Vạn Hữu biến ảo, khôn lường, không một phút giây nào ngừng nghỉ!
Sách Dịch có mục phiêu khảo sát mọi hiện tượng biến thiên của hoàn võ và suy ra các định luật chi phối các biến thiên ấy, vì thế một trong những nghĩa của Dịch là biến thiên.
Vạn Vật biến thiên, lịch sử biến thiên, tâm tư con người biến thiên. Sự kiện ấy không một ai có thể chối cãi được. Khổng tử đứng trên giòng sông nói:
Chảy trôi như thế suốt đêm ngày [1]
Ý ngài muốn nói Vạn Vật như giòng sông trôi chảy đêm ngày, không bao giờ ngừng nghỉ.
Sách Thúy Hư Thiên viết:
Nhãn tiền vạn sự khứ như thủy
Thiên địa hà dị nhất phù âu [2]
Tạm dịch:
Vạn sự nhãn tiền trôi tựa nước,
Đất trời bèo bọt khác chi nhau
Phật giáo nói: Vạn pháp vô thường. Vạn pháp, vì chỉ là những hiện tượng của vũ trụ, nên có sinh, có diệt, có tăng, có giảm, có thủy, có chung. [3]
Héraclite, triết gia Hi Lạp chủ trương thuyết Vạn Vật biến thiên đã viết: Không ai vào được cùng một giòng sông hai lần... Sự đời tụ tán, vãng lai! [4]
Các tao nhân mặc khách cũng thường hay lấy cuộc tang thương biến đổi làm đề tài ngâm vịnh.
Ôn Như Hầu than thở:
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.
Nguyễn Công Trứ vịnh nhân sinh:
Ôi nhân sinh là thế ấy,
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao,
Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín,
Vật thái mạc cùng vân biến huyễn,
Thế đồ vô lự thủy doanh hư.
Cái hình hài đã chắc thiệt chưa?
Mà lẽo đẽo khóc sầu rứa mãi.
Trời đất hỡi có hình, có hoại,
Ỷ chi chi mà chắc chắn chi chi?...[5]
Nhìn sang phía Âu châu, ta thấy các văn gia, triết gia cổ kim phân chia thành 2 phái:
1.- Phái chủ trương Vạn Vật biến thiên đó có:
Platon Homère
Hésiode Héraclite
Hobbes Leibniz
Hegel Bergson
Whitehead v.v [6]
Phái này thiên về quan điểm biến Dịch của vũ trụ.
2.- Phái chống đối chủ trương biến thiên, như:
Parménide Démocrite
Descartes Spinoza
Bradley Spir
Meyerson v.v. [7]
Phái này thiên về quan điểm Hằng Cửu của vũ trụ. Thay vì đi sâu vào chi tiết và để quan niệm cho chính xác vấn đề biến thiên, chúng ta ghi nhận:
1.- Bản Thể không biến thiên [8]
2.- Chỉ có hình thức, hiện tượng biến thiên [9]
3.- Sự biến thiên, diễn tiến từ cực đoan này đến cực đoan khác. Á châu nói: Âm biến Dương, Dương biến Âm; Dịch cùng tắc biến. Âu châu nói: Nóng thành lạnh, lạnh thành nóng, cứng thành mềm, mềm thành cứng... Tức là biến thiên từ chính đến phản. [10]
Quan niệm biến thiên có lẽ đã được manh nha từ hiện tượng biến dịch tuần hoàn của vũ trụ, như thủy triều, như ngày đêm, thức ngủ, hô hấp v.v.... [11]
Có lẽ vì thế mà Dịch Kinh đã nói: Cương Nhu tương thôi, nhi sinh biến hóa.
Và Héraclite đã nói: biến dịch do mâu thuẫn, do tương phản phát sinh. [12]
Từ 2 thế kỷ nay, nguyên lý biến Dịch, cũng như các định luật biến dịch đã được khoa học và triết học Âu Châu xác nhận.
A.- Về phía Thiên Văn học người ta nhận thấy:
1.- Các vì sao vận chuyển, biển đổi phương vị luôn luôn theo những chu kỳ nhất định.
2.- Vũ trụ cũng theo định luật tụ tán.
Ngày nay vũ trụ đang trong thời kỳ bành trướng tản mạn. Điều này đã được xác nhận nhờ phương pháp tán quang, và nhờ nguyên lý Doppler - Fizeau [13] Đó cũng là giả thuyết của Georges LemaÛtre đã được Hubble và Eddington xác nhận. [14]
3.- Các vì sao cũng theo định luật thịnh suy, tiêu tức. Các vì sao ngày nay đã được phân chia ra nhiều hạng sao non, sao già, tùy theo nhiệt độ và màu sắc của sao. Thế là các vì sao cũng có sinh, trưởng, lão, tử.[15]
B.- Về phía Vật Lý học Sadi - Carnot (1822 - 1888) đã tìm ra nguyên lý Dương tiêu Âm trưởng, nghĩa là hoạt lực ngày một tiêu, tiềm lực ngày một tăng. [16]
C.- Về phía Địa Lý, Lyell khám phá ra rằng mặt đất luôn luôn biến chuyển. Động cơ biến chuyển là sức gió, sức nước, sức thác, sức biển, sức sông, sức núi lửa, sức đất. [17]
D.- Về phía Vạn Vật học:
Lamarck (1774 - 1829), Darwin (1809 - 1882), De Vries (1848 - 1935) chủ trương Vạn Vật biến hóa từ loài này sang loài khác. Động cơ phát sinh ra sự biến hóa nói trên là:
- Sự thích ứng với hoàn cảnh [18] (Lamarck)
- Sự đấu tranh sinh tồn, ưu thắng, liệt bại (Darwin)
- Sự di truyền các đặc tính tập thành (Lamarck - Darwin)
- Sự sậu biến (Mutationnisme) (De Vries)
E.- Về phía Triết học Hegel (1770 - 1831), Engels (1820 - 1895) và Karl Marx (1818 - 1883) đã làm sống động lại thuyết biến dịch mà Héraclite đã chủ trương từ 500 năm trước kỷ nguyên, mà Đông phương đã chủ trương từ 2,600 năm trước kỷ nguyên.
Hegel chủ trương: Dương tôn, Âm ti, tinh thần trọng hơn vật chất, tinh thần sinh ra vật chất, và sự biến thiên là do mâu thuẫn nội tại phát sinh; mục đích là để tinh thần ngày một phát triển, ngày một đi tới chỗ thành toàn.
Đối với Hegel, lịch sử là sự phát triển của tinh thần phổ quát trong thời gian.[19]
Engels và Marx cũng chủ trương Vạn Vật biến
thiên, nhưng có những quan điểm ngược với Hegel. Học thuyết biến dịch của Engels và Marx được gọi là Duy vật biện chứng pháp và Duy vật sử quan.
Duy vật biện chứng pháp có thể tóm tắt như sau:
1.- Vật chất tự hữu và hằng cửu [20]
2.- Vạn Vật biến thiên.
3.- Biện chứng pháp là khoa học khảo sát về các định luật chi phối sự biến động cả của ngoại giới, cả của tư tưởng con người. [21]
Chữ biện chứng bao hàm 3 ý nghĩa:
a). Sự biến động nội tại của thực thể.
b). Phương pháp khảo sát thực thể trên bình diện biến thiên.
c). Hành động cách mạng để thúc đẩy sự biến động trong xã hội loài người bằng cách kính thích những mâu thuẫn nội tại. [22]
4.- Đối với biện chứng pháp, không có gì là rốt ráo, là tuyệt đối, là thần thánh... tất cả chỉ là một quá trình liên tục của biến thiên tạm bợ. [23]
5.- Sự biến thiên diễn biến nhờ 4 yếu tố:
a). Động lực nội tại
b). Các sự biến thiên đều ảnh hưởng lẫn nhau.
c). Biến thiên nhờ mâu thuẫn nội tại
d). Sự nhảy vọt bất thần, lượng có thể hóa thành phẩm, vật này có thể sinh vật kia, khinh khí, dưỡng khí có thể sinh ra nước; nước có thể biến thành đá, hay hóa thành hơi; vật chất nhờ đó có thể sinh ra tinh thần.[24]
6.- Áp dụng duy vật biện chứng pháp vào quốc gia xã hội, người Mác Xít cho rằng:
a). Lịch sử đã diễn tiến không phải vì ngẫu nhiên, cũng không phải vì một quyền năng xấu tốt nào bên ngoài, mà vì những định luật bên trong. [25]
b)- Xã hội đã diễn biến qua nhiều hình thức (xã hội cổ sơ, phong kiến, tiểu tư sản, tư bản...) [26]
c)- Những điều kiện vật chất kinh tế, những phương tiện sản xuất, và giai cấp đấu tranh là những yếu tố, những động cơ đã thúc đẩy sự biến thiên ấy. [27]
d)- Cho nên họ chủ trương có thể thúc đẩy sự biến thiên tiến hóa bằng cách gây mâu thuẩn, bằng cách làm Cách mạng. [28]
e)- Mục đích tối hậu là giải phóng con người, khỏi mọi sự tù túng lệ thuộc, để con người thống trị được thiên nhiên. [29]
Đó là đại cương Duy vật sử quan, tức là Duy Vật Biện Chứng Pháp áp dụng vào lịch sử loài người.
Trên đây ta đã toát lược học thuyết của Hegel và học thuyết Marx Engels. So với Kinh Dịch ta thấy có nhiều điểm tương đồng, tương dị.
1.- Tương đồng vì Dịch cũng như Hegel, cũng như Marx, Engels chủ trương Vạn Tượng biến thiên; biến thiên vì mâu thuẫn nội tại.
2.- Tương dị vì Dịch chủ trương Thái Cực siêu Âm Dương, siêu tinh thần và vật chất, bao quát tinh thần và vật chất, sinh ra tinh thần và vật chất, làm căn cốt cho cả tinh thần lẫn vật chất. Trái lại Hegel thì duy thần, Marx, Hegels thì duy vật.
3.- Dịch cho rằng cô Dương bất sinh, cô Âm bất hóa. Còn Hegel, cũng như Marx, Engels, chủ trương hoặc là duy có Dương (Tinh thần) hoặc là duy có Âm (vật chất) thì lấy đâu ra cặp mâu thuẫn nội tại để sinh ra biến hóa được.
4.- Dịch chủ trương dưới những hình thức biến thiên còn có Bản Thể bất biến, trái lại Marx, Engels cho
rằng cái gì cũng vô thường, vô định cả. [30]
5.- Dịch chủ trương Âm Dương có khắc nhưng lại có sinh, tức chủ trương không phải nguyên có sự đấu tranh, chống đối mới sinh ra được biến thiên, mà còn có cả sự đoàn kết, hợp tác, xây dựng nữa. Đó là điều mà Marx, Engels ít nói tới.
6.- Dịch áp dụng khoa học Dịch vào sự cải thiện nội tâm, thần thánh hóa con người, vào sự thích ứng với hoàn cảnh cho khéo léo để có một đời sống lý tưởng, Marx Engels áp dụng khoa học Dịch vào sự canh cải ngoại cảnh và vật chất.
7.- Dịch bắt chước đường lối của Trời, nên hiếu sinh, chủ nghĩa Các Mác vì vụ những thành quả nhãn tiền bên ngoài nên đã tỏ ra hiếu động, hiếu sát.
8.- Dịch cho rằng Vạn Vật, Vạn Tượng biến thiên để phát huy, tận dụng mọi khả năng, ngõ hầu cuối cùng nhận ra được Bản Thể bất biến, và trở về được với Bản Thể bất biến. Hegel cũng đã có cái nhìn cho tới chung cuộc như Dịch Kinh.
Trái lại, Marx Engels không có tầm nhìn xa như vậy và không biết, hoặc không muốn đề cập đến định luật Thiên địa tuần hoàn chung nhi phục thủy. Để tổng kết lại, ta thấy rằng đứng trước hiện tượng Vạn Vật, Vạn Hữu biến thiên, Dịch kinh đã cố tìm cho ra:
1.- Những định luật chi phối sự biến thiên ví dụ như định luật sinh, trưởng, lão, tử v.v..
2.- Động cơ thúc đẩy biến thiên, tức là Âm Dương tương sinh, tương khắc.
3.- Chiều hướng biến thiên tức là hướng ngoại, hướng nội, hướng hạ, hướng thượng; ly tâm, hướng tâm v.v..
4.- Mục đích của cuộc biến thiên tức là phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực của mình, trở về với nguyên bản, với Tuyệt đối. Dịch muốn người học Dịch áp dụng những định luật biến dịch, những nhận định về biến dịch vào bản thân để có thể thực hiện được một đời sống lý tưởng, để có thể giúp mình, giúp người thần thánh hóa bản thân, cải thiện hoàn cảnh, cùng tiến tới một tương lai vô cùng huy hoàng và tốt đẹp.
Chương 3. Dịch là bất biến
Dịch bao quát cả hai phần thể dụng, biến hằng của đất trời. Như trên đã nói: Sự biến thiên chỉ diễn biến trên bình diện hiện tượng, còn Bản Thể vẫn thường hằng.
Nếu vậy thì trong biến thiên, luôn hàm ngụ Bất Dịch, bất biến, vì thế nên Dịch còn có nghĩa Bất Dịch. Nếu biến thiên là tương đối, thì Bất Dịch ắt phải là Tuyệt đối. Có Tuyệt đối rồi Tương đối mới sinh, có Bất Dịch rồi Biến thiên mới hiện, như vậy thì Tuyệt đối, Bất Dịch chính là Bản Thể của trời đất vậy.
Nếu Dịch có nghĩa là Bất Dịch, là Tuyệt đối, là Bản Thể hằng cửu, là Căn nguyên của vũ trụ, thì ta có thể dùng chữ Dịch viết hoa để chỉ Tuyệt đối, hay nguyên lý của vũ trụ. Ta viết: Dịch là Tuyệt đối thể, Nguyên lý vũ trụ, Bản Thể hằng cửu
Dịch bất biến, muốn phát huy quyền năng mình, lại dùng sự biến dịch. Vậy muốn tìm Dịch bất biến, phải từ lòng Dịch biến thiên mà suy ngược lại.
Tiên Hiền, Lão cũng Chư Nho, đã nhận được Dịch là căn nguyên vũ trụ, là Tuyệt đối:
Liệt tử viết: Dịch vô hình liệt [1] Dịch không có hình tướng bến bờ. Ông cũng còn dùng chữ Thái Dịch để chỉ Bản nguyên vũ trụ. [2]
Tạ Vô Lượng khi biên khảo về Vũ trụ luận của các Đạo gia đã viết: Căn nguyên sinh ra mọi sự biến hóa trong vũ trụ, gọi là Không sinh, Không hóa, Nghi Độc, Cốc Thần, Huyền tẫn, Thái Dịch, Vô Vi.
Chung qui đều là một thứ vậy.
Lại suy ra đến cái mà Dịch gọi là Thái Cực, hay Chu tử đời Tống gọi là Vô Cực rồi Thái Cực, Lão tử gọi là Vô Danh, hay Empédocle gọi là To Apiron, tất cả đều là Một vậy. [3] Thiên Ẩn tử viết: Kiêm tam tài gọi là Dịch, quán Vạn Vật gọi là Đạo. Có một tính thuần nhất gọi là Chân như... cho nên Thiên Ẩn tử sinh trong Dịch, mà chết cũng trong Dịch...! [4]
Về phía Nho gia ta thấy Thái Tiết Trai tiên sinh (Thái Uyên) cho rằng: Dịch thời vô tư, vô vi, tịch nhiên bất động, còn Thần thì cảm là lập tức thông suốt lý do trong thiên hạ... Nói Dịch tức là nói khi chưa hiển dương, nói Thần tức là nói khi bắt đầu hiển dương, bởi vì Dịch là căn bản của Thần; Thần là ứng dụng của Dịch [5]
Ông lại viết: Dịch có trước Lưỡng Nghi nên không hình thể. [6]Cho nên học Dịch đối với Ông, là một phương pháp tiến tới Thần minh. [7]Hiểu Dịch là Tuyệt đối, còn Vạn Hữu là tượng trưng, là biểu dương, là hình tượng của Tuyệt đối, thì mới hiểu tại sao Dịch vừa bất biến, vừa biến thiên. Bất biến nếu xét về phương diện tuyệt đối, biến thiên nếu xét về phương diện tương đối Vạn Hữu.
Ngô Khang giải: Bất dịch là tên của Bản Thể hằng cửu. [8]Lý Chứng Cương gọi Bất dịch là Đạo lý tuyệt đối vĩnh cữu. [9]Nguyễn Ấn Trường cho rằng: Bất dịch là Bản thể.[10] Với những lời giải thích ấy, ta có thể trở về Dịch Kinh, và nhận định rõ ràng rằng theo Dịch Kinh, thì trời đất, Vạn Vật là bóng hình, là ảnh tượng của Tuyệt đối thể vô hình, của Dịch. Hệ Từ viết: Trời đất hàm ngụ Tuyệt đối; Cho nên hễ trời đất phân trình thành liệt, thì Tuyệt đối ở ngay trong.
Nếu trời đất bị hủy diệt, thì Tuyệt đối không được biểu dương, thì trời đất cũng không còn lý do tồn tại.[11]Hệ Từ lại viết: Dịch không nghĩ, không làm, tịch nhiên bất động, hễ cảm ứng là biết ngay căn cơ của thiên hạ. Nếu không tuyệt đối thần diệu thì làm sao có thể như vậy được? [12]...Dịch bao quát mọi sự biến hóa của trời đất, tác thành muôn vật mà chẳng bỏ sót cái chi; thông tỏ lối đuờng của ngày đêm. Cho nên Thần thì vô phương sở, mà Dịch thì vô hình thể. [13]Tất cả những lời lẽ trên đã phơi bày tâm tư của Thánh Hiền tự ngàn xưa: Trong cái biến, có cái thường; trong tương đối, có tuyệt đối. Như vậy học Dịch cốt là băng qua biến thiên để trở về với bất biến, bất Dịch.
Quẻ Hằng có lời Tượng rằng: Sấm gió thành quẻ Hằng, quân tử phải tìm phương vị bất biến mà ở [14]
Câu này nào có khác gì câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm của Kinh Kim Cương?
Họ Vương bình Tượng truyện trên như sau:
Tìm được Hằng Cửu nên không đổi thay. Dịch đạo biến hóa vô thường, nhưng trong biến ảo có tìm ra được nơi bất biến, thời mới có thể nói chuyện Dịch được. [15]
Tìm ra được Bản Thể bất dịch trong lòng vũ trụ, cũng như trong lòng con người, là điều kiện thiết yếu cho công cuộc tu thân, thành Thánh, thành Tiên, thành Phật. Kinh Lăng Nghiêm viết: Phật bảo A Nan: Từ muôn kiếp tới nay chúng sinh bị lao lung điên đảo, các nghiệp chướng sinh ra đầy dẫy như trái ác xoa. Còn những người tu hành chẳng thành được Vô Thượng Bồ Đề, lại thành ra bực Thanh Văn, Duyên Giác và các thứ Ngoại Đạo, các Trời và Ma vương, Ma quyến, đều là vì không biết hai thứ căn bản, tu luyện cuồng xiên, thác loạn y như đòi nấu cát thành cơm thì có đến ngàn muôn kiếp cũng chẳng được.
Thế nào là hai thứ căn bản? Hỡi A Nan: một là căn bản tử sinh từ muôn kiếp, y như nay ngươi và chúng sinh lấy tâm vọng tưởng (tâm phan duyên) làm tự tính. [16] Hai là căn bản Vô thủy Niết Bàn nguyên thanh tịnh thể đó ở nơi người, chính là thức tinh nguyên minh có thể sinh ra vạn duyên, vạn sự mà đã bị trần duyên làm mất bỏ. Cũng vì chúng sinh đã làm mất cái căn nguyên sáng láng ấy cho nên hằng ngày tuy vẫn luôn dùng mà chẳng tự biết được nó, rồi lăn lộn đắm đuối vào các thú vui, uổng phí cả đời.[17]
Thủ Lăng Nghiêm còn viết: Đánh mất căn nguyên trường tồn, vĩnh cữu, nên bị luân chuyển.[18]
Héraclite cũng cho rằng học biến dịch cốt để tìm ra Logos (Thái Cực) bất biến. Ông viết đại khái như sau: Logos là Thiên chân thường tại, mà người đời nào biết vân mòng là chi, mặc dầu đã được hay chưa được nghe bàn tới.[19] Tuy mọi sự biến thiên đều do Logos (Thái Cực), nhưng họ y thức như những người vụng dại si ngốc mặc dầu đã trải qua và đã thực hiện nhiều biến thiên hoặc bằng lời nói, hoặc bằng việc làm...
Logos (Thái Cực) là phổ quát mà mọi người lại thích ý kiến riêng tư. Thái Cực có liên lạc thường xuyên với mọi người mà mọi người lại bất hòa, bất hợp với Thái Cực. Cái mà họ gặp thường ngày lại trở nên xa lạ đối với họ. [20]
Như vậy, ta thấy rằng các bậc thượng trí, thượng nhân bất phân đạo giáo, đều đi tìm Hằng Cửu và Bất biến.
Theo Kinh Dịch, trong vũ trụ chỉ có Thái Cực, có Đạo là Tuyệt đối, là Hằng Cửu, Bất biến. Cho nên người quân tử học Dịch, lúc nào cũng phải cương quyết tìm cho ra Đạo, ra Tuyệt đối giữa mọi biến thiên, tương đối, lúc nào lòng cũng phải khế hợp với Thái Cực với Đạo.
Muốn tượng trưng Bản Thể Hằng Cửu hay Thái Cực lồng trong lòng Vạn Vật biến thiên, cổ nhân đã vẽ ra vòng Dịch, trong đó tâm điểm tượng trưng cho Bất biến, Hằng Cửu, còn các vòng Hào Quải bên ngoài tượng trưng cho Vạn Hữu biến thiên. Và nếu ta coi vòng Dịch như là một bánh xe biến hóa, thì tâm điểm bất biến, hay Thái Cực chính là cái bầu, cái trục ở giữa bánh xe.
Trục bánh xe, hay tâm điểm bất biến chính là Thiên tâm, là Chân tâm sinh xuất mọi biến thiên.
Lão tử viết:
Bánh xe ba mươi tai hoa,
Cái bầu giữa trống, nó nhờ nó quay [21]
Văn Đạo Tử giảng luận như sau:
Nhân Đạo, Thiên Đạo đều là tác dụng nhiệm màu của một khí Thái Cực. Và sự tác dụng huyền diệu ấy, sự tuần hoàn vãng phục luân chuyển ấy tất phải có trục. Cổ nhân gọi trục ấy là trung tâm thiên địa, là cùng cực của Thái Cực. [22]
Thiên Đạo cư trung ngự cực nên vận chuyển muôn đời mà không sai thất, cũng như trong bánh xe, các vành xe và tai hoa xe vận chuyển không ngừng là nhờ ở trục xe. Nếu ta giữ vững được trung điểm, tận dụng được Thái Cực, thì có thể chuyển vần với Vạn Vật mà vẫn có thể góp phần được với trời đất trong công trình hóa dục.
Cho nên người quân tử tu Nhân đạo để hợp Thiên Đạo. Hợp Thiên Đạo tức là vào được trục của
vòng Dịch, thoát ra ngoài vòng kiềm chế của hiện tượng, hỗ trợ muôn vật mà không tơ vương, dính bén muôn vật, xoay chuyển vòng biến dịch, mà chẳng chuyển dịch với bánh xe biến thiên, luân lạc.[23]
Hoàng đế nói: Vũ trụ ở trong tay, vạn hóa sinh trong mình. Phật nói: Thu bể khơi vào trong sợi lông, đem núi Tu Di lồng trong hạt cải đâu phải là thuật lạ. Bất quá các ngài đã nắm được trục của pháp luân. Ôi vi diệu thay, trục của pháp luân (trục của vòng biến thiên, hay trục của Vạn Hữu), hỏi mấy ai đã biết? Chẳng rõ được trục mà chỉ biết nói pháp luân luôn vận chuyển, thì chóng chày cũng bị vận chuyển theo pháp luân, làm sao thoát vòng sinh tử được. [24]
Đầu sách Tính Mệnh Khuê Chỉ có hình Lão tử cầm vòng Thái Cực, ý nói học Dịch cốt là tìm ra được Thái Cực, đắc đạo tức là đắc Thái Cực. Thế là cùng lý trí tri nói trong Đại học vậy. Ở nơi con người thì cái trục, cái bất biến, bất dịch chính là cốt cách tinh hoa, chính là lương năng, lương tri hằng cửu.
Nhận ra cốt cách thần minh của mình, lướt thắng được sự hỗn mang của các cảm giác, phân biệt được cái thần diệu bất biến trong một thế giới biến thiên, đạt được tới Bản Thể qua các lớp lang hiện tượng ảo hóa, đó mới là vấn đề chính yếu. [25] Thế tức là áp dụng được khoa Dịch học vào cuộc đời mình:
Có biến mới hay có cửu trường,
Trung tâm tĩnh lãng, ngoại nhiễu nhương.
Nhiễu nhương, biến hóa sinh luân lạc,
Học Dịch cốt tìm Bất Dịch phương.
Ngoài nghĩa bất Dịch là Tuyệt đối bất biến, Hằng Cửu, các nhà bình giải còn cho rằng bất dịch là những ngôi vị bất dịch, nhũng định luật bất dịch.
Sách Càn tạc độ giải bất dịch là địa vị bất dịch: Như trời trên đất dưới, vua quay mặt về Nam, thần quay quay mặt về Bắc, cha ngồi, con phục. [26]
Nhưng những sự kiện nói trên chẳng có gì là bất biến, bất dịch cả; ví dụ trái đất tròn lơ lửng giữa bầu trời, thì vừa có trời ở trên, trời ở ngang, và trời ở dưới; quẻ Bĩ thì trời trên, đất dưới
mà quẻ Thái thì lại đất dưới, trời trên
. Vả Hệ Từ cũng viết: Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (Hệ Từ hạ, VIII)
Vấn đề quân Nam diện, thần Bắc diện, chỉ có giá trị với một thời đại nào ở Trung hoa, chứ như ở Âu châu thì nào họ có kể chi là phương hướng. Hơn nữa đến thời dân chủ thì đâu là vua? Ngay đến như vấn đề phụ tử, ta cũng đã thấy có những trường hợp, vì chủ nghĩa, người ta cũng có thể đảo lộn được cả cương thường v.v...
Muốn cho chính xác hơn, ta phải nói rằng tuy thế giới đảo điên, biến hóa nhưng vẫn dược chi phối bằng nhưng định luật bất dịch [27] những định luật ấy có thể xác định được, ví dụ như:
- Định luật tụ tán,
- Định luật điên đảo,
- Định luật thăng trầm,
- Định luật sinh, trưởng, thu, tàng hay sinh, trưởng, lão, tử.
- Định luật tuần hoàn v.v...
Tổng kết lại, chữ Dịch là Bất Dịch gợi cho chúng ta 2 ý niệm:
1.- Trong vũ trụ có một Bản Thể tuyệt đối.
2.- Vũ trụ được chi phối bằng những định luật bất dịch.
Chương 4. Dịch là giản dị
Dịch kinh cũng như vũ trụ, nếu xét về phương diện Hào Quải, Vạn Tượng biến thiên, thì phức tạp vô cùng tận. Ngược lại, nếu xét về phương diện Vô Cực Thái Cực, phương diện Bản Thể thì thực là giản dị.
Vì thế Dịch còn có nghĩa là giản dị.
Cho nên Dịch chỉ giản dị nếu ta nắm được đầu mối Dịch, then chốt của Dịch, xem được bộ mặt thực của Dịch, khi chưa biến hóa. Mới hay:
Chí đạo chớ tìm trong biến hóa,
Lẽ trời đừng kiếm chỗ tần phiền [1]
Hệ Từ bàn về sự giản dị của Dịch rất khéo léo Tạm Dịch như sau:
Càn Khôn dễ biết dễ làm,
Dị nên dễ biết, giản càng dễ theo.
Dễ hay, nên sẽ dễ yêu,
Dễ theo, nên sẽ chắt chiu thi hành.
Có yêu,trường cửu mới sinh,
Có làm, mới có công trình lớn lao,
Hiền nhân, đức cốt bền lâu,
Hiền nhân, sự nghiệp cơ mầu lớn lao.
Lẽ trời giản dị xiết bao.
(Tìm nơi phiền toái thấy sao lẽ trời)
(Lẽ trời giản dị thấy rồi)
Ngôi Trời cao cả tức thời hiện ra [2]
Phục Mệnh Thiên viết: Chí đạo bất phiền, nhân tự muội [3]
Dịch:
Chí đạo chẳng tần phiền,
Chỉ tại người u tối.
Lãng Nhiên Tử viết:
Chưa hay thần thất, nghìn điều rối,
Đạt được tâm điền, vạn sự không [4]
Tuy lời lẽ có khác nhau, nhưng Tiên Thánh, Tiên Hiền đều quan niệm rằng: Đạo Trời chẳng khó, Đạo Dịch thực dễ. Khó là vì mình tự lao mình vào rắc rối khó khăn. Dễ là vì khi đã tìm ra được Thái Cực, ra Đạo, ra Bản Thể ẩn khuất sau Hào, Quải, sau Hiện Tượng, là đã bắt được vi-ý của cổ nhân rồi.
Tại sao gọi được rằng Dịch là giản dị?
Dịch giản dị, vì coi muôn loài là ảnh tượng, là biểu dương của Tuyệt Đối, y thức như Hào Quải là biểu tượng của Thái Cực.
Dịch giản dị, vì chủ trương Tuyệt Đối, chẳng có xa người mà đã ở ngay trong lòng người, chẳng có xa Vạn Hữu mà đã ở ngay trong lòng Vạn Hữu, như Thái Cực đã nằm ngay giữa các Hào Quải. Dịch giản dị, vì chủ trương thiên biến vạn hóa trong trời đất đều do sự tương khắc, tương thừa của Âm Dương sinh ra. Mà Âm Dương tức là khí chất, tức là tinh thần, vật chất. Những sự biến hóa của vũ trụ có định luật, có tiết tấu hẳn hoi, vãng lai, phản phúc tuần hoàn rồi cuối cùng lại trở về Nguyên Bản.
Nếu muôn loài đều theo định luật tuần hoàn ấy, nếu nhân quần đều theo định luật tuần hoàn ấy, thì mỗi một người cũng phải theo định luật ấy. Như vậy, học Dịch cốt là tìm cho ra căn cốt siêu nhiên của mình, tìm cho ra Thái Cực, cho ra Tuyệt Đối ngay trong đời mình, vì một đời cũng như vạn đời, một ngày cũng như vạn cổ. Leibniz định nghĩa giản dị là bất khả phân [5].
Như vậy thì trong khắp vũ trụ chỉ có Tuyệt đối là bất khả phân, cũng như trong Dịch chỉ có Thái Cực là bất khả phân. Cho nên khi nói Dịch là giản dị, tức là cổ nhân đã ngụ ý dạy ta phải tìm cho được Tuyệt Đối, được Thái Cực dưới mọi hình thức biến thiên, dưới mọi lớp lang Hào, Quải.
Người Hi Lạp cho rằng sự giản dị là Ấn tín của Chân Lý. Đối với các bậc danh nhân như Descartes, Leibniz, Poincaré hay Einstein, sự giản dị cũng là hướng đạo đưa tới Chân Lý. [6]
Ngụy Bá Dương viết trong Tham Đồng Khế:
Đạo yếu huyền vi,
Thiên cơ thâm viễn.
Đạt giả duy giản duy dị,
Nhi mê giả dũ phiền, dũ nan dã [7]
Dịch:
Tinh hoa Đạo thể huyền vi,
Thiên cơ thâm viễn, khó suy, khó lường,
Biết ra giản dị, dễ dàng,
Mê thời đã khó, lại càng khó thêm.
Trương Hoành Cừ khi luận về khí Thái hòa sinh Vạn Vật đã cho rằng: mới đầu thì cơ vi dị giản, nhưng càng về sau càng quảng đại kiên cố [8].
Cao Trung Hiến bình rằng: Gọi là cơ vi, dị giản vì lúc đầu chỉ có một khí lưu hành, lặng lẽ vần xoay. Gọi là quảng đại kiên cố tức là đề cập tới khi đã thịnh đạt, sung mãn, mỗi ngày một đổi mới.[9] Một khí ấy (Thái Hòa) vừa giao động thì ban đầu chưa có hình tích, nhưng Vạn Vật hóa sinh mà chẳng thấy khó khăn. Đó là sự dễ dàng đề cập ở quẻ Càn.
Đến khi muôn vật hiển lộ, bao la khoáng đại, có hình tích thấy được, xem được, nhưng muôn vật vẫn thư thái, chẳng cảm thấy mệt mỏi. Đó là sự dễ dàng đề cập ở quẻ Khôn . Càn sinh vật cách giản dị, Khônthành vật một cách giản dị. [10]
Nguyễn Ấn Trường bình về sự giản dị của Dịch lý, cũng như của trời đất như sau:
*Thiên hạ vạn cửa, chung qui chỉ có Đóng với Mở;
* Thiên hạ Vạn Lý, chung qui chỉ có Chính với Tà;
*Thiên hạ Vạn Thể, chung qui có Động với Tĩnh;
*Thiên hạ Vạn Số, chung qui có Chẵn với Lẻ;
*Thiên hạ Vạn Tượng, chung qui có Đực với Cái;
*Thiên hạ Vạn Chất, chung qui có Cứng với Mềm.
Cho nên đạo của Dịch có gì đâu, chẳng qua một Âm, một Dương thôi vậy.[11]Vậy lĩnh hội ý Dịch, nếu muốn giản dị ta sẽ chọn:
- Thái Cực giữa muôn nghìn ảnh tượng.
- Chọn số Một giữa muôn ngàn số.
- Chọn Tâm điểm giữa Hào Quải trên vòng Dịch. Cũng vì vậy mà Trang tử nói: Đắc Nhất vạn sự tất; mà đạo gia gọi là Thủ Trung, Bão Nhất.
Thế tức là lấy Một Tượng quán thâu vô số Tượng, lấy Một Số quán thâu vô số Số, lấy Một Đạo quán thâu vô số Đạo, lấy Một Tâm quán thâu vô số Tâm. [12]
Nếu muốn giản dị hơn nữa: Ta sẽ chọn:
- Vô Tượng
- Vô Vị
- Vô Số, Vô Chất
- Vô Thanh, Vô Xú
Như vậy chẳng phải là giản dị đến tuyệt mức sao? [13]
Chương 5. Dịch là nghịch số
Dịch gồm 2 chiều thuận, nghịch. Từ Vô Cực, Thái Cực xuống tới Âm Dương, sinh hóa Vạn Vật, đó là chiều thuận. Đó là chiều từ Thái Cực ra đến 64 quẻ của Phục Hi hoành đồ. Đạo gia gọi thế là giáng bản lưu mạt. [1] Từ Vạn Vật, trở ngược về Bản thể, hay nói cách khác từ 64 quẻ trở về Tứ Tượng, Âm Dương, Thái Cực gọi là chiều nghịch. Đạo gia gọi thế là từ ngọn trở về gốc, là tự mạt phản bản [2]
Như vậy chiều thuận sẽ sinh nhân, sinh vật, chiều nghịch sẽ sinh Thánh, sinh Thần. [3]
Vẽ ra đồ bản, ta thấy hai chiều thuận nghịch như sau:

Nhìn vào Tiên Thiên Bát Quái ta thấy hai chiều thuận nghịch như sau;
a)- Chiều thuận:

(Chiều thuận: từ Thái Cực tới Vạn Vật, từ khinh thanh (Càn) tới trọng trọc (Khôn)
b)- Chiều nghịch.

(Chiều nghịch, từ Vạn Hữu trở về Thái Cực, từ trọng trọc (Khôn) trở về khinh thanh (Càn), từ khinh- thanh trở về Thái Cực,)
Hoàng Cực Kinh Thế giải:
Từ trên xuống dưới gọi là thuận:
Bốn tả ( trái) thì từ Càn đến Đoài Ly Chấn, 1, 2, 3, 4 vậy. Bốn hữu (phải) thì Tốn, Khảm, Cấn, Khôn, 5, 6, 7, 8 vậy.
Trần Đoàn theo gương các lão tổ tiền bối như Hà Thượng Công, Ngụy Bá Dương, Hán Chung Ly, Lã Nham (Lã Động Tân) đã đề ra năm giai đoạn để trở về Vô Cực.
1.- Tìm cho ra Thái Cực tức Huyền Tẫn Chi Môn;
2.- Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần.
3.- Ngũ hành định vị, ngũ khí triều nguyên.
4.- Âm Dương phối hợp Thủ khảm điền Ly.
5.- Luyện thần hoàn hư, phục qui Vô Cực [4]
Chu Nguyên Công (Chu Hối Am) giải Dịch theo chiều thuận. Thái Cực đồ của Ông cũng có 5 tầng từ trên xuống dưới:
1.- Vô Cực hay Thái Cực;
2.- Âm Dương phối hợp, Âm động, Dương tĩnh.
3.- Ngũ Hành định vị, Ngũ Hành đều có tính chất riêng.
4.- Càn đạo thành nam, Khôn đạo thành nữ.
5.- Vạn Vật hóa sinh [5]
Trong Tính Mệnh Khuê Chỉ cũng giải rõ hai chiều thuận nghịch và áp dụng vào con người như sau:
a)- Chiều thuận:
Tính —> Tâm —> Ý —> Tính —> Vọng [6]
Ngày nay ta gọi thế là hướng ngoại.
b)- Chiều nghịch:
Vọng —> Tình —> Ý —> Tâm —> Tính
Trở về Tính tức là được Hoàn Đơn [7]
Ngày nay ta gọi thế là hướng nội.
Trong quyển Tượng Ngôn Phá Nghi có 14 bức họa xác định 2 chiều nghịch thuận của cuộc đời, cũng như của vòng Dịch.[8] Ta có thể giải thích các hình vẽ đó một cách đại khái như sau:
a)- Chiều thuận: Từ hình I đến hết hình VIII.
Con người vốn từ Thái Cực sinh nhưng càng ngày càng lạc lõng vào trần hoàn, quên mất cả bản tâm bản tính. Đó là chiều thuận của vòng Dịch Tiên Thiên Phục Hi, từ Trung cung đến quẻ Cấu rồi đến quẻ Khôn.
b)- Chiều nghịch: Từ hình IX đến hết hình XIV.
Nhưng Âm cực thì Dương sinh; tuy lạc lõng trong trần cấu, con người vẫn có thể tìm ra được Thiên tâm. Nhờ đó, con người biết cải thiện, hướng nội dần và cuối cùng phục hồi lại được bản tâm bản tính, Thái Cực nguyên thủy. Đó là chiều nghịch của vòng Dịch Tiên Thiên, từ quẻ Phục đến quẻ Càn, vào đến trung cung Thái Cực [9]
Nhìn sang phía Trời Âu, ta thấy nhiều Triết gia cũng đã đề cập đến hai chiều thuận nghịch của cuộc tiến hóa.
Hegel mô tả đại khái như sau: Tinh thần thoạt kỳ thủy xuất phát để phá tán vào Vạn Vật, rồi qua nhiều thời kỳ văn minh, nhiều chặng đường lịch sử vất vả, lại phục hồi được Chân thể [10]
Các Triết gia Alexandrins và Thomistes cũng chủ trương một vòng tuần hoàn từ Thượng Đế xuống, rồi lại dần dần quay lại. [11]
Denis Aréopagite, một Triết gia và một nhà Huyền Học Âu châu thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên cũng chủ trương vũ trụ vận chuyển theo hai chiều: chiều sinh hóa từ Thượng Đế phát ra, và chiều phản bản qui nguyên, trở về Thượng Đế [12]
Gần đây Claude Tresmontant cũng viết: Có một vấn đề siêu hình vẫn thường ám ảnh tư tưởng Âu châu: đó là sơ đồ một vòng tuần hoàn từ Nhất xa đọa xuống Vạn, rồi từ Vạn lại phản hoàn về Nhất [13]
Hai chiều thuận nghịch của vũ trụ cũng đã được các Khoa Học gia dần dần xác định.
Chiều thuận tức là chiều Dương tiêu Âm trưởng đã được Carnot Clausius chứng minh. Quan niệm này được gọi là nguyên lý thứ 2 của Nhiệt Động Học, hay nguyên lý Carnot Clausius. Nguyên lý này đại khái như sau:
1.- Năng lực trong vũ trụ có một số lượng nhất định.
2.- Năng lực có thể phân tách thành hoạt lực, và tiềm lực.
3.- Khi tác dụng, hoạt lực sẽ tiêu hao, suy giảm dần và không thể phục hồi nguyên trạng được.
4.- Rốt cuộc hoạt lực tiêu hao dần và có một lúc nào sẽ triệt tiêu.
5.- Khi ấy tiềm lực sẽ lên đến mức độ tối đa (entropie maxima) nhưng vô dụng, và thế giới sẽ tận số trong im lìm, lạnh lẽo.
Mới đầu các Khoa Học gia tưởng thế giới chỉ chuyển động theo một chiều nói trên. Dần dà, các nhà Sinh Lý học (biologistes) và các nhà Sáng Tạo máy móc tự động (cybernéticiens) đã nhận thấy rằng nguyên lý Carnot - Clausius chỉ áp dụng cho vật chất vô tri, chứ không áp dụng cho sinh vật, nhất là con người.
Trong con người, rõ ràng là có 2 chiều biến chuyển: Tiêu- (Catabolisme), Tức - (Anabolisme).
Tổng kết lại các quan niệm của:
-Dịch, Đạo gia, Triết gia, Khoa Học gia, ta thấy vũ trụ có hai chiều, hai hướng vận chuyển.
Theo chiều thuận, tinh thần ngày một suy, vật chất ngày một thịnh. Theo chiều nghịch, vật chất ngày một suy, tinh thần ngày một thịnh.
Chiều thuận được chi phối bởi luật nhân duyên (loi de causalité). Chiều nghịch được hướng dẫn bởi luật cứu cánh (loi de finalité).
Theo chiều thuận, thì nhân dục thắng, thiên lý vong. Theo chiều nghịch, thì nhân dục vong, thiên lý thắng.
Ta đúc kết lại các nhận xét trên bằng đồ bản sau:

Chiều nghịch:
Âm tiêu
Dương trưởng
Vật chất thoái
Tinh thần tiến
Thiên lý thắng
Nhân dục vong
Định luật cứu cánh (Từ quẻ Phục đến quẻ Kiền để trở về Trung cung Thái Cực)
|
Chiều thuận:
Âm trưởng
Dương tiêu
Vật chất tiến
Tinh thần thoái
Nhân dục thắng
Thiên lý vong
Định luật nhân duyên chi phối (Từ Trung cung ra quẻ Cấn đến quẻ Khôn)
|
Lưu Nhất Minh bàn về thuận nghịch đại khái như sau: Đi theo chiều thuận của Tạo Hóa tức là sinh người, sinh vật, lâm vòng Sinh, Bệnh, Tử, Lão luân hồi không dứt; đi theo chiều nghịch của Tạo Hóa sẽ thành Tiên, thành Phật, bất sinh, bất diệt, thọ cùng trời đất.
Đi theo chiều thuận, trong thì bị thất tình lục dục làm mê muội, ngoài thì bị trăm điều, nghìn việc quấy đảo tâm thần, lấy giả là chân, lấy tà làm chính, lấy khổ làm vui, cứ bị lôi cuốn theo dục vọng của mình mãi mãi, cho đến tiêu hao hết tinh thần. [14]
Người đại trí, đại tuệ, đi theo chiều nghịch sẽ thoát vòng kiềm tỏa của các định luật Tạo hóa, sẽ không còn bị Âm Dương nung nấu, không còn bị Vạn Vật cuốn lôi, Vạn Duyên biến dịch... dùng đời để tu đạo, lấy Nhân Đạo để chu toàn Thiên Đạo...
Nghịch đây là trở về với Tuyệt Đối Thể, y như một kẻ bỏ nhà ra đi thật xa xôi, nay trở lại nhà. Tuy gọi lànghịch hành, nhưng thực là đi theo đúng lẽ Trời, đó là cái đại thuận trong cái nghịch, nghịch đây bất quá là ngược với đường lối thế nhân thông thường. [15]
Sau khi đã trình bày xong hai chiều thuận nghịch, ta thấy rằng: chiều nghịch là chiều quan trọng, là chiều giúp ta tiến tới Thần Minh, Qui Nguyên Phản bản. Dịch trọng chiều nghịch, và dạy người quân tử đi theo chiều nghịch, vì thế gọi Dịch là nghịch số.
Lão tử trọng chiều nghịch, vì thế mới nói: Phản giả đạo chi động [16]Các Đạo gia hết sức trọng chiều nghịch. Các ngài chủ trương cần phải băng qua Hào, Quải trở ngược về Thái Cực, băng qua hiện tượng trở về với Tuyệt Đối. [17] Các ngài chủ trương muôn loài rồi ra cũng trở về với Thái Cực. [18]
Ngộ Chân Trực Chỉ có thơ:
Vạn Vật vân vân các phản côn,
Phản côn, phục Mệnh, tức trường tồn
Tri thường Phản Bản nhân nan hội,
Vọng tác chiêu hung vãng vãng văn.
Tạm dịch:
Vạn Vật rồi ra cũng phản côn [19]
Phản côn, phục Mệnh, sẽ trường tồn
Tri thường, Phản bản, người đâu rõ,
Nên mới chiêu hung, sống mỏi mòn.
Tiên Hiền cho rằng học nghĩa các quẻ để biết đường trở về nguyên sơ Thái Cực. [20]
Tôn Bất Nhị viết:
Tâm tâm thủ linh được,
Tức tức phản Càn Sơ [21]
Tạm dịch:
Ôm ấp linh đơn quyết một lòng,
Trở về Chân thể, dạ hằng mong.
Và giải Càn sơ là nơi xuất phát của quẻ Càn, tức là Chân không, là Đạo tâm [22]
Lưu Nhất Minh có thơ:
Nguyên quan nhất khiếu thiểu nhân tri,
Hoảng hốt yểu minh hàm lưỡng nghi
Thuận khứ qui lưu phiền não lộ.
Nghịch lai tiện thị Thánh Hiền ki [23]
Tạm dịch:
Huyền quan một khiếu ít người tri,
Phảng phất mơ mòng đủ lưỡng nghi.
Đưa đẩy xuôi dòng, vương khổ não
Ngược chiều, Hiền Thánh tạo căn ki.
Trên đây đã:
1.- Minh xác hai chiều thuận nghịch, cùng ý nghĩa và mục đích của hai chiều thuận nghịch.
2.- Đề cao chiều nghịch và nhận chân chiều nghịch là chiều sinh Tiên, sinh Thánh, sinh Thần.
Tuy nhiên con người sinh ra đời không phải lúc
nào cũng theo được chiều nghịch, mà cũng có lúc phải theo chiều thuận. Theo thiển ý tôi, một cuộc sống lý tưởng nhất của con người sẽ gồm cả hai chiều thuận nghịch. Lúc tuổi trẻ, theo chiều thuận, chiều hướng ngoại, từ tinh thần tiến ra vật chất, ra ngoại cảnh ra xã hội để mưu sinh, cải tạo hoàn cảnh, góp phần xây dựng giang sơn đất nước. Nửa đời sau khi đã công thành danh toại, sẽ đi chiều nghịch, từ vật chất ngoại cảnh, tiến sâu về phía tâm linh, để thần thánh hóa bản thân, phối hợp với Thái Cực. Sách Đạo Nguyên Tinh Vi Ca cho rằng: Trước xuống, sau lên, hợp tự nhiên. [24]
Như vậy là biết hồi hướng đúng lúc phải thời, theo đúng lẽ tuần hoàn, vãng lai, phản phúc của Dịch Kinh và của trời đất. Lúc trở vào nội tâm, lúc đi theo chiều nghịch, thì mọi sự đều nghịch đảo hết:
Cái gì xưa kia cho là quan trọng, nay trở thành tầm thường; cái gì xưa cho là tầm thường, nay trở nên quan trọng.
Con người thực tế (le moi empirique) nhường bước cho con người lý tưởng (le moi idéal).
Ngay cả đến vấn đề tín ngưỡng cũng chuyển hướng đảo điên. Thượng Đế ngoại tại trở thành Thượng Đế nội tại. Thượng đế xưa kia xa cách, nay trở thành thân mật gần kề. [25] Ngưòi ngoài tưởng ta bỏ thực, cầu hư. Ngược lại ta biết chắc mình đã bỏ hư, cầu thực.
Đi theo chiều thuận, hướng ngoại, hoạt động bên ngoài là đi theo đời, Đi Đời. Đi theo chiều nghịch, hướng nội, sống một đời sống tinh thần súc tích bên trong đó là đi theo đạo, Đi Đạo.
Chạy theo đời, Đi Đời mà ngỡ mình Đi Đạo là lầm lỡ lớn. Từ trên sấp xuống, đã giải xong mục đích cao siêu của Dịch là dạy con người biết chèo ngược dòng đời lên tới căn nguyên.
Áp dụng vào con người, chèo ngược dòng đời lên tới căn nguyên là đi sâu vào chiều hướng tâm linh, thu thần định trí, sống một đời sống siêu nhiên, phối hợp với Tuyệt Đối. Thế tức là dừng chân nơi chí thiện (Đại học) ở nơi bất Dịch (Dịch, quẻ Hằng), đắc kỳ hoàn trung theo lời Trang tử tức là về được tâm điểm của vòng Dịch nơi mà sự biến thiên của vũ trụ không vào tới được.
Phải chăng, thế là Hưu hồ Thiên quân, yên nghỉ trong Thượng Đế theo lời Trang Tử?
Chương 6. Dịch là tượng
Dịch là Tượng, vì Dịch toàn dùng ký hiệu, toàn dùng ảnh tượng làm phương thế dạy đời.
Hiểu được những ký hiệu của Dịch, những hình ảnh của Dịch, sẽ biết được thâm ý của người viết Dịch, sẽ suy ra được lời lẽ của người viết Dịch, sẽ tìm ra được nhiều định luật của Dịch.
Các nhà bình giải Dịch xưa nay đã có bàn về Tượng rất nhiều và rất tỉ mỉ, nhưng thường vội đi sâu vào chi tiết, nên quên mất đại thể, thường chú trọng đến ảnh tượng mà quên mất ký hiệu. Cho nên truớc khi đi vào phần chi tiết của Tượng, ta hãy bàn đến phần đại cương chính yếu của Tượng.
1. Những quan niệm chính yếu về Tượng Học
Phần Chính yếu của Tượng chính là các đồ bản Dịch, các ký hiệu Dịch, không hình ảnh, không lời lẽ.
Tuy không hình ảnh, không lời lẽ, nó vẫn rất là quan trọng. Chẳng hạn như trông vào vòng Dịch Tiên Thiên Bát Quái hay Lục Thập Tứ Quái, ta thấy nó tượng trưng cho Bản Thể và Hiện Tượng, cho Hằng Cửu và Biến thiên, cho 2 chiều tiêu tức của vũ trụ, cho định luật vãng phản, tuần hoàn của Tạo Hóa, cho nguyên lý: tinh thần sinh vật chất, vật chất sinh tinh thần v.v...
KHÁI NIỆM
|
KÝ HIỆU
|
Bản Thể (Nhất thể)
|
Thái Cực
|
Vạn Tượng ,Vạn Hữu
|
Hào Quải
|
Bản Thể bất biến
|
Tâm điểm, hay Thái Cực ở giữa vòng Dịch
|
Vạn Tượng biến thiên
|
Vòng Dịch 8 hay 64 quẻ bên ngoài
|
Chiều tiêu, chiều vãng
|
Nửa vòng Dịch phía phải
|
Chiều tức, chiều phản
|
Nửa vòng Dịch phía trái
|
Vòng tuần hoàn
|
Từ Thái Cực, ra Cấu đến Khôn, rồi lại từ Phục đến Càn, đến Thái Cực.
|
Nguyên lý: Tinh thần sinh vật chất, vật chất sinh tinh thần
|
Càn Khôn
|
Đối với Dịch, vũ trụ, Vạn Vật, Vạn Hữu chỉ là ảnh tượng, là bóng hình, là biểu dương của Tuyệt đối cũng như Hào Quải là ảnh tượng là bóng hình của Thái Cực.
Hệ Từ hạ truyện viết: Thị cố Dịch giả, tượng dã. Tượng dã giả, tượng dã.
Hóa cho nên Dịch là Tượng, mà tượng là hình ảnh vậy!
Mỗi Hào Quải chẳng qua là một trạng thái, một quá trình biến hóa của Bản Thể duy Nhất.
Dịch chủ trương dùng hai ký hiệu đơn giản là:
Âm 
Dương 
rồi chồng lên nhau thành 8 quẻ, 64 quẻ, sẽ có thể mô tả Vạn Vật, Vũ Trụ.
Leibniz nhận thấy chủ trương này chẳng có gì là sai quấy. [1] Leibniz đã dùng Khoa Nhị Nguyên Toán Thuật (Arithmétique binaire ou arithmétique dyadique) của Ông để giải Dịch, Ông mã lại Âm Dương và 64 quẻ Dịch theo toán thuật của Ông như sau:
Dương
|
= 1
| |
Âm
|
= 0
| |
Càn
|
= 111111
| |
Khôn
|
= 000000
| |
Cấu
|
= 011111
| |
Bác
|
= 000001
|
Ngày nay khoa học đã mặc nhiên công nhận và áp dụng phương pháp của Dịch, trong các công cuộc truyền tín hiệu, truyền hình ảnh từ các vệ tinh về mặt đất, bởi vì các máy điện tử chỉ dùng có 2 ký hiệu là 0 và 1, xếp thành 64 nhóm, mỗi nhóm có 6 số.
Phương pháp như sau:
1. Chụp ảnh.
2. Phân ảnh ra thành 64 biến thái của màu sám. Mỗi một biến thái của màu sám được đổi sang thành 6 số ví dụ như sau:
110110 110011 010001 v.v...
3. Đánh các tín hiệu trên về trái đất.
4. Các máy điện tử ở dưới đất đổi các tín hiệu trên lại thành các biến thái màu sám.
5. Cuối cùng ta có các ảnh về hình thể của Mặt trăng hay của hành tinh như Hỏa tinh. [2]
Như vậy nói rằng Dịch dùng Âm Dương và 64 quẻ để tượng trưng Vạn Vật, không có ngoa vậy.
Tượng của Dịch có thể chia làm 2:
1. Văn là những nét vạch liền, đứt như ☰ ☷ ☲ ☵ để chỉ trời, đất, lửa, nước, v.v...
2. Những ảnh tượng hữu hình cụ thể, như con gà con ngựa, con rồng, con nhạn, v.v...
Văn là những ký hiệu trừu tượng nhất, nhưng lại phổ quát nhất, hàm súc nhất, vì nó không qua trung gian từ ngữ.
Cho nên, nếu chủ tâm nghiên cứu các đồ Dịch các họa bản không lời của Dịch, ta có thể khám phá ra nhều định luật và rất nhiều quan niệm Chính xác về vũ trụ, về nhân sinh.
Chẳng hạn, ta có thể giải thích Thái Cực và Tứ Tượng:

Như sau:
Như vậy ký hiệu Thái Cực với Tứ Tượng đã diễn tả một cách hùng hồn lẽ biến hằng của vũ trụ, cũng như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông của trời đất của cuộc đời và của niên canh.
Những ký hiệu và những cách sắp xếp nói trên cũng cho ta thấy: vạn sự, Vạn Vật có thể có khí chất ngược nhau (
,
) có nhiều hướng trái nhau (
,
), hoặc lịch sử con người sẽ qua hai chiều hướng ngoại, hướng nội, từ tinh thần tiến dần ra vật chất, rồi lại từ vật chất tiến dần về tinh thần v.v... [3]
2. Ít nhiều chi tiết về Tượng Học
Dịch dùng rất nhiều ảnh tượng làm lợi khí diễn tả tư tưởng, làm phương tiện giáo hóa.
Từ người, đến vật, đến dụng cụ, đến sông núi, mây mưa, sấm chớp, lửa nước, nhất nhất cái gì cũng có thể trở nên hình ảnh, nên tượng trưng đối với Dịch.
Những hình ảnh ấy thực đa đoan, sự xuất hiện của chúng nhiều khi rất là kỳ bí, không biết tại duyên do nào. Nếu ta không đặt vấn đề vì đâu Dịch lại có những hình ảnh ấy, những lời lẽ ấy, thì học Dịch cũng không mấy khó khăn. Nhưng nếu ta tìm hiểu vì đâu có những hình ảnh này, hình ảnh nọ trong các Hào Quải, thì Kinh Dịch trở nên những bài thai đố nan giải.
Về vấn đề này, có thể chia các nhà bình giải Dịch thành ba phái.
1. Phái thứ nhất, trong đó có Hán Nho, cho rằng cần phải hiểu Tượng, phải hiểu duyên do đã phát sinh ra các ảnh tượng dùng trong Hào, Quải thì mới có thể hiểu thấu Dịch được. [4]
Muốn đạt mục phiêu này họ đã dùng nhiều phương cách, như:
1. Dựa vào Thuyết quái.
2. Dựa vào các quẻ Hỗ thể.
3. Dựa vào các quẻ Bàng thông.
4. Dựa vào các quẻ Thác và quẻ Tống.
5. Dựa vào hình tượng mà toàn quẻ gợi nên.
6. Dựa vào đặc tính của mỗi quẻ.
7. Dựa vào các quẻ Phi, Phục.
8. Dựa vào các quẻ Biến.
9. Dựa vào phương pháp nạp giáp ngũ hành [5] v.v...
Thực là rất công phu, rất phiền toái, Trong những trang dưới đây sẽ bàn qua về một vài phương pháp kể trên.
2. Phái thứ hai, gồm những Học giả như Vương- Bật, chủ trương không cần phải lưu tâm đến ảnh tượng, mà chỉ cần hiểu nghĩa lý [6]
3. Phái thứ ba, gồm những Triết gia như Trình tử, như Chu Hi, chủ trương ảnh tượng là những phương thức, những thí dụ dùng để diễn đạt tư tưởng.
Tìm được duyên do, càng hay, không tìm được cũng chẳng quan hệ, không hơi sức nào mà làm công chuyện đáy bể mò kim, miễn sao mình hiểu được ý Dịch là đủ. [7]
Riêng tôi, tôi cũng thấy công cuộc đi tìm duyên do của các ảnh tượng nhiều khi chỉ làm cho óc chất mình thêm rốị loạn. Hơn nữa cũng chẳng có gì bảo đảm rằng đó chính là đường lối mà các tác giả Kinh Dịch xưa đã theo.
Tuy nhiên, ta cũng nên biết sơ qua về các phương pháp đi tìm duyên do của các ảnh tượng dùng trong mỗi quẻ, mỗi Hào. Những phương pháp ấy đại khái như sau:
1. Dựa vào những hình ảnh mà Thuyết quái đã gán cho tám quẻ chính.
Dùng các hình ảnh trên, ta có thể suy ra ảnh tượng của mỗi quẻ, cũng như sự tượng trưng của mỗi quẻ. Đại Tượng truyện trong Kinh Dịch đã dùng phương pháp này. Ví dụ quẻ Tiểu Súc trên có quẻ Tốn là gió, dưới có quẻ Càn là trời.
Đại Tượng truyện viết: «Phong hành thiên thượng Tiểu Súc.» 風 行 天 上 小 畜.
Ta thấy ngay rằng gió bay trên trời cao thì chẳng có sức nuôi dưỡng, chẳng ảnh hưởng đến Vạn Vật được là bao, vì thế gọi là Tiểu Súc (nuôi dưỡng ít)
Ví dụ: quẻ Lữ
trên có Ly ☲ là lửa, dưới có Cấn ☶ là núi. Lửa cháy trên núi, là những đám cháy rừng lan rất mau lẹ, nên gọi là Lữ, y như người lữ thứ không có sở cư nhất định.
2. Nhân tính chất của quẻ, mà suy ra hình ảnh. Ví dụ:
- Quẻ Càn là quẻ thuần Dương, biến hóa, thì lấy con rồng mà tượng trưng.
- Quẻ Hàm nói về sự cảm thông, cảm xúc, thì dùng các phần mình như ngón chân cái, vế, đùi, gáy, má, cằm, mồm mà tượng trưng, vì các phần trong cơ thể đều có cảm giác [8]
- Quẻ Trung phu nói về trung tín, thì dùng lợn, cá, nhạn, gà. Theo Lai tri-Đức thì lợn, cá biết được gió nổi, nhạn biết được thu về, gà biết sáng mà gáy, không sai chệch vì thế dùng để tượng trưng sự trung tín [9]
- Quẻ Tiệm nói đến chim Hồng vì nó đến có kỳ, nó bay có hàng ngũ thứ tự, hơn nữa chim Hồng không lấy hai đời chim đực, nên hợp với lời Thoán từ của Văn Vương là gái về nhà chồng [10]
3. Dựa vào hình dáng quẻ mà suy ra ảnh tượng.
- Như ở quẻ Bác có một Dương ở trên, năm Âm ở dưới, thì nói đến nhà, đến giường, vì nhà có mái, giường có mặt na ná như hình quẻ Bác.
- Quẻ Đỉnh, gọi là Đỉnh vì các Hào được xếp như hình cái Đỉnh
, Hào Sơ Lục là chân đỉnh, ba Hào Dương ở giữa là mình đỉnh, Hào Lục ngũ là tai đỉnh, Hào Thượng Cửu là nắp đỉnh.
4. Nhìn cơ cấu toàn quẻ, nhìn đại thể của sáu Hào, rồi tùy vị thứ Âm Dương mà qui nạp toàn quẻ về một trong tám quẻ chính.
Thể lệ như sau:
Hào Dương ở trên là tượng Cấn, Tốn.
Hào Dương ở dưới là tượng Chấn, Đoài.
Hào Dương ở giữa là tượng Khảm
Hào Âm ở giữa là tượng Ly.
Ví dụ: Ích
có Hào Âm ở giữa, Hào Dương ở trên và dưới là tượng Ly ☲ , vì thế trong quẻ có đề cập đến con rùa (Rùa là 1 trong những tượng quẻ Ly trong Thuyết quái.)
Như Đại Quá
tượng Khảm ☵ nên nói đến cột.
Như Di
tượng Ly ☲ nên nói đến rùa v.v... [11]
5. Tìm xem quẻ Hỗ thể là quẻ gì để lập tượng.
Quẻ Hỗ thể là 2 quẻ sinh ra bởi các Hào thứ 2, 3, 4 hoặc thứ 3, 4, 5 của toàn quẻ.
- Ví dụ quẻ Bĩ
có hai quẻ Hỗ thể là quẻ Tốn ☴ (3, 4, 5), và Cấn ☶ (2, 3, 4) Tốn là lãnh đạm, Cấn là đình trệ. Tốn và Cấn hợp lại cũng thành quẻ Cổ
cũng có nghĩa là đình đốn, đình trệ. Đã Bĩ là bế tắc rồi, mà lại còn thêm thờ ơ, đình đốn nữa thì thực nguy hiểm.
Ví dụ quẻ Tiệm
có hai quẻ Hỗ thể là Khảm ☵ (2, 3, 4) và Ly ☲ (3, 4, 5). Nơi Hào Cửu tam nói: Phụ dựng bất dục (đàn bà có chửa nhưng không nuôi được). Nói tới đàn bà chửa vì ở đây Khảm có 1 Hào dương ở giữa ☵. Hào Cửu ngũ nói: «Phụ tam tuế bất dựng» 婦 三 歳 不 孕 (Đàn bà 3 năm không chửa). Nói không chửa ở đây vì Ly trung hư v.v...
6. Lấy quẻ Thác (thác quái) hay quẻ Bàng thông mà thủ tượng.
Lai Tri Đức thì gọi là Thác quái. Ngu thị (Ngu Phiên) thì gọi là Bàng thông.
Bàng thông hay thác quái là những quẻ hoàn toàn đối nghịch nhau về phương diện Âm Dương như:
Kiền
thác Khôn 
Hằng
thác Ích 
Ví dụ: Ích Lục tứ có câu: «Trung hành cáo công tòng.» 中 行 告 公 從. Ngu thị chú: Trung hành 中 行 là nói về quẻ Chấn ☳ (ở bên quẻ Hằng có quẻ Chấn). Chấn có nghĩa là đi, là theo, nên nói «Trung hành cáo công tòng.» [12]
Đại súc Cửu nhị có câu: «Dư thoát phúc.» 輿 説 輹 (xe trút bánh).
Ngu thị giải: Đại súc
bàng thông Tụy
.
Bên quẻ Tụy có Khôn ☷ mà Khôn là xe, là bánh xe.
Bên Đại súc có quẻ Càn ☰ thế là Khôn tiêu thành Càn vì thế dùng chữ thoát. [13]
Bác
Thượng Cửu có câu: «Quân tử đắc dư.» 君 子 得 輿 (Quân tử được xe).
Ngu thị giải: Bác
bàng thông Quái
.
Bên quẻ Quái có Càn là quân tử là đức.
Bên quẻ Bác có Khôn là xe. Càn vào Khôn nên nói Quân tử được xe [14]
Ngu thị đã dùng phương pháp này để giải Dịch [15]
7. Dùng quẻ Tống (Tống quái) mà thủ Tượng.
Lai Tri Đức gọi là Tống quái [16]
Song Kiếm xí gọi là Phúc quái [17]
Tống quái hay Phúc quái là quẻ lộn ngược trở lại ví dụ Cấn ☶ lộn lại thì thành Chấn ☳ .
Ví dụ: quẻ Tổn
lộn lại thành quẻ Ích
.
Hào Lục ngũ của quẻ Tổn, tức là Hào Lục nhị của quẻ Ích vì thế nên đều có câu: «Thập bằng chi qui phất khắc vi.» 十 朋 之 龜 弗 克 違 (mười cặp rùa cũng không ngăn lại được).
Quẻ Quái
lộn lại thành quẻ Cấu
Hào Cửu tứ của quẻ Quái tức là Hào Cửu tam của quẻ Cấu cho nên đều nói: «Đồn vô phu.» 臀 无 膚 (mông không da). v.v...[18]
8. Biến Hào để thủ Tượng
Như nơi quẻ Độn
Hào Lục nhị nói đến trâu mà không biết vì sao. Ta biến Hào Sơ thành Dương ta sẽ có
, quẻ dưới sẽ là Ly ☲ ; Ly giữa có Khôn khí vì thế nói đến trâu [19]
9. Nạp Giáp để thủ Tượng.
Theo phương pháp này:
Càn Khôn nạp Giáp Ất
Cấn Đoài nạp Bính Đinh.
Khảm Ly nạp Mậu Kỷ
Chấn Tốn nạp Canh Tân
Càn Khôn lại nạp Nhâm Quí.
Nạp Giáp cốt đề tượng trưng sự qua lại của 2 vầng Nhật Nguyệt, sự thăng trầm của Âm Dương. Dùng phép Nạp Giáp ta sẽ hiểu ít nhiều câu trong Dịch.
Ví dụ: Quẻ Thái
, Hào Lục ngũ có câu Đế Ất có chữ Ất vì Khôn nạp Ất. [20]
Quẻ Cách
Hào Lục nhị có chữ Kỷ nhật, vì Ly nạp Kỷ.
Quẻ Cổ
Thoán từ có chữ «Tiên Giáp tam nhật, Hậu Giáp tam nhật.» 先 甲 三 日, 後 甲 三 日.
Quẻ Cổ Bàng thông với quẻ Tùy
, nếu ta cho biến Hào Sơ của quẻ Cổ, ta thấy quẻ Càn ☰ hiện ra, mà Càn thì nạp Giáp v.v...
Duyệt xét lại các phương pháp trên, ta thấy cổ nhân xưa đã tốn rất nhiều công phu, xoay xở trăm chiều để giải các Tượng Dịch, dẫu đôi khi ta không hoàn toàn đồng ý về sự hữu lý của cách giải thích, nhưng ta cũng phải nhận là tài tình. [21]










Không có nhận xét nào: