1.1. Mỹ học trước Mác
Aristote thế kỉ 7 thời
cổ Hi Lạp trước công nguyên, trong cuốn Poetika (Thi pháp), ông yêu cầu
triết học nghiên cứu qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc ấy, mĩ học còn
phôi thai, chưa tồn tại độc lập.
Baumgacten (Đức) 1735: giáo sư yêu cầu mĩ học nhận nhiệm vụ nghiên cứu con đường nhận thức thế giới bằng cảm xúc. Ông viết hai cuốn Mĩ học tập I năm 1750, Mĩ học tập II năm 1758. Từ đây mĩ học ra đời, chính thức trở thành khoa học độc lập.
Immanuel Kant (Đức) cuối thế kỉ 18
Xác định đối tượng của mĩ
học là “thị hiếu thẩm mĩ” là cái chủ quan, ông bác bỏ sự nghiên cứu đối
tượng khách quan (cái đẹp không phải ở trên đôi má hồng thiếu nữ mà ở
trong con mắt kẻ si tình)
Hegel (Đức) đầu thế kỉ 19
Mĩ học chỉ nghiên cứu cái đẹp nghệ thuật
do Chúa trời ban phát cho nghệ sĩ, “nghệ thuật là vương quốc bao la
của cái đẹp”. Cái đẹp chủ yếu tập trung ở nghệ thuật, còn những cái đẹp
khác trong đời sống thì đơn giản, thiếu hụt và nhàm chán.
Tsernysevski (Nga thế kỉ 19) trái ngược với Hegel, khẳng định “Cái đẹp là cuộc sống”.
Dostoievski (Nga thế kỉ 19) “Cái đẹp sẽ cứu cả thế giới“, “cái đẹp là lí tưởng đấu tranh của nhân dân”.
Bielinski (Nga thế kỉ 19) mở rộng đối tượng mĩ học đến “lí tưởng thẩm mĩ”.
Gogol (Nga thế kỉ
19) nghiên cứu thi ca Puskin và từ đó đến với mĩ học. Ông viết “con
người có thể suy tư lặng đi trước mọi thứ nhỏ bé và vĩ đại, đó là lúc
phát sinh tia lửa điện thi ca-cái đẹp. Nó vốn có trong toàn bộ thế giới
(mọi công trình của thượng đế), kể cả và trước hết là trong Con Người”
1.2 Mỹ học Mác Lê nin
Mối quan hệ của mĩ học với các khoa học khác
Quan hệ với triết học
Triết học là cái nôi sinh ra Mĩ học
- Bản thể luận
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng,
Giác quan con người là công cụ của đời sống thẩm mĩ.
cái thẩm mĩ có sẵn trong bản chất thế giới.
cái đẹp mang tính thứ nhất triết học.
- Nhận thức luận
Theo Lê nin, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,
vậy thì chúng ta có thể dựa vào nghệ thuật để nhận thức thế giới khách quan.
Mặt khác, con người còn sáng tạo những cái thẩm mĩ chưa có trong thực tiễn.
- Chủ nghĩa duy vật lịch sử (nghiên cứu về vai trò của cá nhân và quần chúng trong sự phát triển của lịch sử) là công cụ đắc lực khi nghiên cứu mĩ học.
Quan hệ với tâm lí học
Mĩ học và tâm lí học cùng nghiên cứu một đối tượng là con người.
Con người có hai hoạt động là sinh lí và tâm lý. Mĩ học chú ý hoạt động tâm lí, “cái đẹp tâm lí học” và “tâm lí học thẩm mĩ”.
Quan hệ với nghệ thuật học
Nghệ thuật học bao gồm nhiều chuyên ngành
¨ Lịch sử nghệ thuật (Lịch sử văn học VN, LS sân khấu…v.v…)
¨ Lí luận nghệ thuật (Lí luận văn học, Lí luận âm nhạc v.v…)
¨ Văn bản học (Văn bản Việt, văn bản Hán cổ, văn bản Nôm.v.v. . .)
¨ Tâm lí học sáng tạo nghệ thuật
¨ Tâm lí học tiếp nhận nghệ thuật
¨ Phê bình nghệ thuật (văn chương, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh.v.v…)
Quan hệ giữa mĩ học và nghệ thuật học là quan hệ hai chiều nhưng mĩ học chi phối quyết định hơn.
Cấu trúc của đời sống thẩm mĩ
Nếu “bổ dọc” đời sống con người ta thấy 2 nửa: nửa vật chất và nửa tinh thần
Nếu “cắt ngang”, ta thấy “lát cắt” chính là đời sống thẩm mĩ.
Đời sống thẩm mĩ thấm sâu hòa lẫn vào cả đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Đời sống thẩm mĩ là một bộ ba
Khách thể thẩm mĩ
Chủ thể thẩm mĩ
Nghệ thuật
KHÁCH THỂ THẨM MĨ gồm Bốn phạm trù thẩm mĩ cơ bản:
Cái đẹp – Cái trác tuyệt - Cái bi kịch - Cái hài kịch
CHỦ THỂ THẨM MĨ gồm 6 tố chất thẩm mỹ:
Cảm xúc thẩm mĩ
Biểu tượng thẩm mĩ
Hình tượng thẩm mĩ
Tình cảm thẩm mĩ
Thị hiếu thẩm mĩ
Lí tưởng thẩm mĩ










Không có nhận xét nào: