Trả lời câu hỏi “mỹ học là gì?” thực chất là đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi “mỹ học nghiên cứu cái gì?”. Mỗi ngành khoa học - khoa học tự nhiên, khoa học xã hội hay khoa học nhân văn, muốn tồn tại như một ngành độc lập thì phải xác định đối tượng nghiên cứu chuyên biệt của mình. Từ cổ xưa, một tác giả khuyết danh của công trình nổi tiếng Về cái cao cả đã xác định hai yêu cầu cơ bản đặt nền tảng cho bất cứ một ngành khoa học nào gồm: Một là, cần xác định đối tượng nghiên cứu của mình; và hai là, cần tìm tòi và chỉ ra các phương pháp chiếm lĩnh đối tượng này. Chính Hegel trong tác phẩm Khoa học lôgic, khi trình bầy về vai trò của việc xác định đối tượng của ngành khoa học này cũng đã nói rất đúng rằng: không am hiểu đối tượng của lôgic học thì không thể nói trước nó là gì cả.
Vậy đâu là đối tượng đặc thù của mỹ học? Nói cách
khác, mỹ học nghiên cứu cái gì trong thế giới thực tại muôn màu muôn vẻ? Không
dễ tìm ngay được câu trả lời xác đáng. Đó là quá trình tìm tòi không mệt mỏi
của nhiều nhà mỹ học danh tiếng thuộc nhiều dân tộc trong suốt chiều dài lịch
sử.
C.
1
QÚA TRÌNH XÁC ĐỊNH ĐỐI TƯỢNG CỦA MỸ
HỌC TRONG LỊCH SỬ
Các
học thuyết mỹ học trong quá khứ thường tập trung sự tìm tòi vào hai lĩnh vực
chính: cái đẹp và nghệ thuật. Có thể thấy rõ điều đó trong tư
tưởng mỹ học của những đại diện lớn nhất cho các giai đoạn phát triển của mỹ
học nhân loại như: Platon (427 - 347 TCN), Aristote (384 - 322 TCN), Leonardo
da Vinci (1452 - 1519), Diderot (1713 - 1784), Lessing (1729 - 1781), Kant
(1724 - 1804), Hegel (1770 - 1831), Bielinxki (1811 - 1848), Tsecnưsepxki (1828
- 1889)…
Platon là
nhà triết học, nhà mỹ học duy tâm nổi tiếng của Hy lạp cổ đại. Cũng như nhiều
nhà mỹ học khác, quan niệm thẩm mỹ của ông gắn bó và chịu sự chi phối của quan
niệm triết học. Hạt nhân của triết học Platon là thuyết ý niệm (tức tinh
thần, linh hồn). Ông chia thực tại ra làm hai thế giới: thế giới ý niệm,
cái ta có thể biết nên gọi là thế giới khả niệm; thế giới vật thể,
cái ta có thể thấy nên gọi là thế giới khả thị. Trong đó, theo ông, chỉ
có thế giới ý niệm mới “tồn tại chân thực, nó có trước và sản
sinh ra các vật thể cảm tính”. Từ quan niệm triết học đó, khi đi vào mỹ
học, ông cho rằng mặc dù có cái đẹp vật chất và cái đẹp tinh
thần, nhưng chỉ có cái đẹp tinh thần, cái đẹp của ý niệm mới là cái
đẹp vĩnh hằng, tuyệt đối. Ông viết: “Cái đẹp là tự nó”. Khi có ý định
giải thích cái đẹp của nghệ thuật, ông chủ trương thuyết “bắt chước”. Ông
không khước từ việc tái hiện thực tại của nghệ thuật, nhưng vì thế giới vật thể
cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm, nên với Platon chủ trương: “Nghệ
thuật chỉ là cái bóng của cái bóng”. Nghệ thuật cách xa chân lý tới
ba bậc nên nó là “ảo ảnh”, không có giá trị nhận thức.
Aristote là
học trò xuất sắc của Platon, nhưng về mặt tư tưởng, cơ bản ông đi ngược lại
quan niệm của thầy mình. Các công trình của ông bao trùm lên nhiều lĩnh vực khác
nhau, và ở lĩnh vực nào ông cũng vươn tới những đỉnh cao mà thời đại cho phép.
K. Marx gọi ông là “nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại”. Về mặt
triết học, Aristote chống lại cách phân chia thực tại thành hai thế giới đối
lập, siêu hình, mà cho rằng chỉ có duy nhất một thế giới vật thể tồn tại, trong
đó có sự thống nhất giữa vật chất (nghĩa là bản chất bên trong)
với hình thức (nghĩa là hiện tượng bên ngoài). Trên cơ sở nhận
thức như vậy về thế giới, ông thừa nhận đặc tính khách quan của cái đẹp. Trong
công trình nổi tiếng Siêu hình học, ông nói đẹp là trật tự của sự hài hòa,
cân xứng. Trong Thi pháp học, ông đã bổ sung thêm tính xác định, hữu hạn
và thống nhất. Cũng như Platon, ông theo thuyết “bắt chước” (nghĩa là
tái hiện) vật thể cảm tính (thế giới hiện thực) trước hết là cái đẹp của thực
tại, trung tâm là vẻ đẹp của con người. Mỹ học của ông thấm nhuần ý nghĩa nhân
bản cao cả bên cạnh tính duy vật sâu sắc. Ông yêu cầu nghệ sỹ phải “diễn
tả cái có thể xảy ra” theo bản chất và quy luật tất yếu. Cao hơn, ông còn
trao cho nghệ sỹ cái quyền “bổ sung vào cái không có trong tự nhiên”. Tính
lý tưởng được khẳng định cùng với tính hiện thực. Ông đặc biệt đề cao ý nghĩa
nhận thức và ý nghĩa giáo dục của nghệ thuật. Lý thuyêt về khả năng “thanh
lọc hóa” tâm hồn người xem của bi kịch được ông phát hiện cho đến nay vẫn
còn nguyên giá trị.
Qua
thời trung đại, nhân loại bước sang thời Phục hưng - thời đại đã sản sinh ra
những “người khổng lồ” về tư tưởng, trong đó có tên tuổi của Leonardo
da Vinci - danh họa người Italia. Theo kiến giải của ông, cái đẹp tồn tại
trong những thuộc tính của chính bản thân sự vật, hiện tượng, trong sự kết hợp
hài hòa giữa các bộ phận, nhất là màu sắc và âm thanh của chúng. Trong
cuốn Bàn về hội họa, ông khẳng định: “Chúng ta học tập tự nhiên chứ
không học tập các họa sỹ khác, những người mà bản thân họ cũng chỉ là con đẻ
của tự nhiên mà thôi”. Ông rõ ràng đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của
các bậc tiền bối. Ông phát triển khả năng chiếm lĩnh cái đẹp ở người nghệ sỹ
bằng việc vận dụng các phương tiện khoa học. Ông đặt nghệ thật, trươc hết là
hội họa, ngang hàng với khoa học về ý nghĩa và phương thức phản ánh thực tại là
vì thế.
Diderot là
đại diện xuất sắc cho thời Khai sáng khi nhiều vấn đề mỹ học được nghiên cứu
một cách sâu sắc. Ông là nhà triết học, nhà văn, nhà lý luận nghệ thuật lừng
danh người Pháp. Trong công trình Nghiên cứu triết học về nguồn gốc và bản
chất của cái đẹp, ông trước sau luôn khẳng định cái đẹp vốn là thuộc
tính của nhiều đồ vật, sự vật khách quan. Diderot hiểu nghệ thuật như là sự mô
phỏng tự nhiên. Ông viết: “Thiên nhiên là mô hình đầu tiên của nghệ
thuật”. Ông yêu cầu nghệ thuật phải là phương tiện hữu hiệu để giáo dục
con người: “Giới thiệu cái đạo đức cho người ta noi theo, cái tật xấu cho
người ta lên án, cái lố bịch cho người ta thấy rõ – đó là nhiệm vụ của bất cứ
một người chân chính nào cầm bút viết, cầm bút vẽ, cầm dao khắc”. Ý nghĩa
cao quý của nghệ thuật đối với con người và cuộc sống có được một phần vì lẽ đó.
Người
đại diện chói lọi hơn cả cho phong trào Khai sáng ở Đức là Lessing. Đó là
một người có học vấn toàn diện. Ông là tác giả của những công trình nghiên cứu
mỹ học có tiếng như Lao Coon, Kịch trường Hăm buốc… Dựa trên quan
điểm duy vật về triết học, ông chủ trương nghệ thuật mô phỏng toàn bộ tự
nhiên có thể thấy trong đó cái đẹp chỉ là một bộ phận nhỏ. Sự chân thực,
biểu cảm được ông coi là những quy luật chủ yếu của nghệ thuật chân chính. Theo
ý kiến của ông, nghệ thuật cần phải đánh giá cuộc sống theo những quan điểm về
cái đẹp và cái xấu, nhằm tác động đến đạo đức, uốn nắn những sai lạc của tầng
lớp bình dân. Ông rất chú ý đến sự lệ thuộc của các loại hình nghệ thuật vào
tính chất của đối tượng phản ánh. Hội họa và điêu khắc, theo Lessing, thích hợp
mô tả với những vật thể được xếp đặt trong không gian, trong khi văn chương lại
thích hợp với việc phản ánh những hành động xẩy ra trong thời gian. Ông đồng
thời chủ trương sự pha trộn tính bi, hài trong kịch, không nhất thiết phải đảm
bảo sự thuần nhất về thể loại trong nghệ thuật kịch.
Ông
tổ của nền triết học cổ điển Đức - một trong ba nguồn gốc góp phần
tạo lập nên chủ nghĩa Marx - là Kant. Với ông, cái đẹp có những phẩm
chất riêng, không liên hệ qua lại với cái có ích và cái thiện. Khoái cảm do cái
đẹp mang lại là hoàn toàn vô tư, vô tâm. Tư tưởng đúng đắn về nguyên tắc đó
được Kant tuyệt đối hóa và bọc trong cái vỏ duy tâm chủ nghĩa. Ông quan niệm
cái đẹp có tính thiên bẩm. Ông đặt trọng tâm nghiên cứu không phải ở bản thân
cái đẹp của sự vật và hiện tượng mà là những điều kiện cảm thụ chúng trong quan
niệm về cái đẹp của con người. Ông cả quyết viết: “Chúng ta có thể coi cái đẹp
của tự nhiên là sự mô tả khái niệm hợp lý về mặt hình thức (thuần túy chủ
quan)”. Tính hợp lý ông nói tới ở đây là hoàn toàn được suy xét trên cơ sở
thị hiếu. Theo Kant, nghệ thuật là sự tạo dựng cái đẹp nhờ ở một trò chơi thuần
túy hình thức. Không thể học để sáng tạo nghệ thuật được, vì nói đến nghệ thuât
là nói đến thiên tài, mà thiên tài thì là lĩnh vực hoàn toàn huyền bí, tiên
nghiệm. Đã rõ là học thuyết này của Kant đầy mâu thuẫn. Bên cạnh cái đúng có
không ít cái sai, cái lầm lạc. Điều này cũng giống như di sản mỹ học của một
tên tuổi vĩ đại khác: Hegel – một trong những đại diện lớn nhất cho
nền mỹ học cổ điển Đức.
Quan
niệm mỹ học của Hegel tập trung trong cuốn Những bài giảng về mỹ học (1835).
Ông quan niệm mỹ học chỉ nghiên cứu cái đẹp trong nghệ thuật mà thôi và
chúng ta lập tức loại trừ cái đẹp của tự nhiên ra khỏi đối tượng của chúng ta. Vì
sao vậy? Ông giải thích: vì không có tiêu chuẩn gì thống nhất được
cái đẹp của tự nhiên vốn tồn tại một cách bàng quan, không có quy luật nào cả.
Vậy là với Hegel, cái đẹp nghệ thuật ưu việt hơn nhiều so với cái đẹp tự nhiên.
Đặc trưng chủ yếu của cái đẹp nghệ thuật, theo ông, là sự thống nhất giữa khái
niệm và hiện thực của nó mà ông gọi là tinh thần và ngoại
hiện. Ông không dùng thuật ngữ nội dung và hình thức bởi
ông quan niệm trong thực tế, hai phạm trù cơ bản đó chuyển hóa qua lại rất tinh
tế. Có được sự thống nhất như thế, cái đẹp nghệ thuật sẽ đạt tới tính tất yếu
tự do. Tuy nhiên, tính tất yếu phải ẩn dưới hình thức một điều ngẫu nhiên không
có chủ ý. Đóng góp vô giá của mỹ học duy lý Hegel là hết mực đề cao giá trị
nhận thức của nghệ thuật. Ông viết: “Nghệ thuật thật sự trở thành vị thầy
cao nhất của các dân tộc”. Có thể nói, với Hegel, lần đầu tiên mỹ học được
xác lập thành một khoa học thật sự.
Đối
với các nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga, lý luận mỹ học đã trở thành vũ khí
đấu tranh chính trị hữu hiệu, gắn bó mật thiết với phong trào giải phóng con
người. Người đặt nền móng cho mỹ học dân chủ cách mạng Nga là nhà phê bình văn
chương lỗi lạc Bielinxki. Ông đứng trên lập trường duy vật để giải quyết
những vấn đề của nghệ thuật. Ông định nghĩa nghệ thuật “là sự tái hiện
thực tiễn”. Để chống lại mọi khuynh hướng tách rời nghệ thuật ra khỏi đời sống,
ông nhấn mạnh sự tương đồng về đối tượng phản ánh của nghệ thuật và khoa học.
Sự khác biệt giữa hai lĩnh vực này chỉ là ở phương thưc phản ánh thế giới hiện
thực, trong đó bằng tư duy hình tượng, nhà thơ mô tả thế giới qua những
bức tranh, còn nhà khoa học thì trình bày thế giới qua những khái niệm bằng
tư duy lôgic. Nghệ thuật với ông không chỉ là sự tái hiện sáng tạo hiện thực mà
còn biểu hiện mối quan hệ giữa người nghệ sỹ với hiện thực. Do đó, tác phẩm
nghệ thuật có thể và cần phải tác động tới sự phát triển của xã hội. “Tước bỏ
quyền phục vụ lợi ích xã hội - Ông viết - là không nâng cao mà hạ
thấp nghệ thuật”. Trên những cơ sở trên, Bielinxki cổ vũ cho một nền nghệ thuật
hiện thực chủ nghĩa có tính tư tưởng cao và tính nhân dân sâu sắc. Học thuyết
về tính nhân dân của nghệ thuật, về mối liên hệ mật thiết giữa nghệ thuật và
hiện thực là những cống hiến xuất sắc của nhà phê bình vào di sản mỹ học của
nhân loại.
Tsenưsepxki là
đại diện lớn nhất của nền mỹ học duy vật trước chủ nghĩa Marx. Trong luận văn
nhan đề Những mối quan hệ thẩm mỹ của con người với thực tại, ông đã đặt vấn
đề về bản chất của cái đẹp. Tranh luận mạnh mẽ với Hegel, ông khẳng định dứt
khóat: “Cái đẹp là cuộc sống”. Vì nghệ thuật phản ánh thưc tại, nên cái đẹp
trong thực tại, theo ông, cao hơn cái đẹp trong nghệ thuật. Về sau, để làm
chính xác thêm tư tưởng này, Tsenưsepxki bổ sung: “Cái đẹp là… cuộc sống phù
hợp với biểu tượng của chúng ta về cái đẹp”. Ông coi nghệ thuật là đối tượng
chủ yếu của mỹ học. Khi bàn về nghệ thuật, ông phát triển tư tưởng của
Bielinxki về chủ nghĩa hiện thực và tính nhân dân của nghệ thuật. Ông tuyên bố:
“Nghệ thuật là cuốn sách giáo khoa của cuộc sống”. Ông còn yêu cầu nghệ thuật
chân chính cần vạch mặt cái ác, sự chuyên quyền bạo lực, đồng thời chỉ cho nhân
dân con đường đi tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Không phải ngẫu nhiên khi Marx đã
coi ông là nhà bác học và nhà phê bình vĩ đại của nước Nga.
Rõ
ràng, cái đẹp và nghệ thuật đã được nhiều nhà mỹ học trong suốt trường kỳ
lịch sử tập trung nghiên cứu. Đó là những cơ sở cho các quan niệm mỹ học
là khoa học về cái đẹp (Baumgarten) và mỹ học là triết học về nghệ
thuật (Hegel). Cả hai quan niệm đều chứng tỏ sự cố gắng nhận
chân ra nét đặc thù của đối tượng mỹ học, song không tránh khỏi sơ
sài và phiến diện. Đành rằng, cái đẹp có vị trí đặc biệt trong đời sống thẩm
mỹ. Nhưng ngoài cái đẹp, mỹ học còn đặt cho mình nhiệm vụ nghiên cứu các phạm
trù thẩm mỹ cơ bản khác như cái cao cả, cái bi, cái hài... và nhiều phạm trù
thẩm mỹ không cơ bản khác ngoài đời sống và trong nghệ thuật. Đấy là chưa nói
tới các phạm trù thể hiện chủ thể thẩm mỹ - một yếu tố không thể thiếu của bất
kỳ dạng quan hệ thẩm mỹ nào. Do vậy, có thể khẳng định: quan niệm “Mỹ học là
khoa học về cái đẹp” tỏ ra bất cập, còn quan niệm “Mỹ học là triết
học về nghệ thuật” thì lại vừa hẹp vừa mơ hồ. Hẹp vì mỹ học không chỉ
nghiên cứu nghệ thuật cho dù đây là hình thái biểu hiện tập trung vào cao độ
đời sống thẩm mỹ của con người. Mơ hồ vì định nghĩa chưa chỉ ra thật xác định
giới hạn nghiên cứu nghệ thuật của mỹ học so với triết học và các ngành nghệ
thuật học cụ thể khác.
C. 2
ĐỐI TƯỢNG MỸ HỌC THEO QUAN NIỆM HIỆN ĐẠI
Muôn vàn hiện tượng, sự vật trong tự nhiên, xã hội và
con người vốn là đối tượng tìm hiểu của các ngành khoa học khác nhau, trừu
tượng cũng như cụ thể, tự nhiên cũng như xã hội và nhân văn. Tuy nhiên không hề
có đối tượng chuyên biệt cho ngành khoa học này hay ngành khoa học khác. Ở đây
cần lưu ý tới nhận định quan trọng sau của Viện sĩ Paplov. Trong “Các tác
phẩm triết học chọn lọc”, nhà bác học nhận xét rất chí lý rằng: “Cả
trong tự nhiên lẫn trong xã hội không hề có đối tượng vật lý, hóa học hay mỹ
học thuần túy, nhưng mỗi đối tượng ấy lại có những thuộc tính khiến nó thu hút
sự chú ý của nhà vật lý, nhà hóa học hoặc nhà nghệ sĩ. Một người xem xét nó
trên phương diện vật lý, người kia trên quan điểm hóa học, còn người thứ ba
trên quan điểm thẩm mỹ”. Ý kiến của Paplov có ý nghĩa phương pháp luận sâu
sắc. Ta có thể rút ra 3 nhận xét sau qua câu nói của ông:
1. Mỗi hiện tượng và sự vật trong tự nhiên và xã hội
đều có nhiều mặt khác nhau (mặt vật lý, mặt hóa học, mặt thẩm mỹ…).
2. Mỗi người (nhà vật lý, nhà hóa học, nhà nghệ sỹ…)
khi tiếp cận tới muôn vật muôn loài, tùy quan điểm, mục đích của mình mà quan
tâm tới mặt này hay mặt kia của sự vật và hiện tượng
3. Do mỗi chủ thể có từng đối tượng xác
định mà nảy sinh ra những quan hệ không giống nhau (quan hệ vật lý,
quan hệ hóa học, quan hệ thẩm mỹ…).
Các nhà sáng lập ra Chủ nghĩa Marx - Lenin cũng đưa
ra những ý kiến tương tự. K. Marx từng chỉ rõ: một bộ bàn ghế kê ở nhà thì
có giá trị sử dụng, đem ra chợ bán thì có giá trị hàng hóa. Bàn về giá trị
của cái cốc, V. Lenin cho rằng: có khi nó được dùng không phải để uống mà
lại để nhốt bướm hoặc để chặn giấy… Trên đời, rõ ràng không hề có những
mối quan hệ trừu tượng, chung chung, chỉ tồn tại những mối quan hệ cụ thể, xác
định. Đó là quan hệ vật chất hay quan hệ tinh thần, là quan hệ kinh tế hay quan
hệ chính trị, văn hóa, đạo đức, khoa học, thẩm mỹ… Mỹ học nghiên cứu mối
quan hệ thẩm mỹ của con người đối với thực tại. Đó chính là đối tượng
nghiên cứu đặc thù của mỹ học.
Để hiểu vấn đề, cần phải làm sáng tỏ thế nào là mối
quan hệ? và thế nào là mối quan hệ thẩm mỹ? Khi Marx cho rằng loài
vật không có quan hệ, thì ông muốn khẳng định sự khác biệt giữa hai thuật
ngữ liên hệ và quan hệ. Muốn tồn tại, con vật phải liên hệ với
môi trường xung quanh, nhưng hoàn toàn không có chủ đích, không có ý thức. Còn
con người thì khác, con người không chỉ hoạt động mà còn hành
động, nghĩa là tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên theo nhu cầu và ý định
của mình. Trong bộ Tư bản, khi phân biệt hoạt động của loài ong với hành
động của một kiến trúc sư, Marx đã giả định có thể “con ong với những ngăn
để sáp của mình còn khéo hơn một nhà kiến trúc nhiều”, nhưng thật ra hoạt
động của loài ong với lao động của nhà kiến trúc sư khác nhau rất nhiều, khác
nhau về nguyên tắc. Ấy là bởi, trước khi tạo ra một tòa nhà, người kiến trúc sư
đã hình dung ra từ trước trong đầu mình cấu trúc, hình dáng của toà nhà phù hợp
với mục đích sử dụng và mục đích thẩm mỹ. Nói khác đi, con ngươi ở đây có mối
quan hệ với hoàn cảnh, trong khi loài vật mới chỉ dừng ở mối liên hệ với
môi trường mà thôi. Chính nhân tố tích cực, chủ động, đã chuyển những mối
liên hệ thành những mối quan hệ. Nói như vậy cũng có nghĩa là không
phải trong bất cứ sự tiếp xúc nào của con người cũng đều có tính mục đích, tính
tự giác, nghĩa là cũng đều xác lập được mối quan hệ. Vậy nên, giữa nhiều sự vật
và hiện tượng mà con người tiếp cận có những sự vật và hiện tượng đối với con
người chỉ là khách thể chứ không phải là đối tượng. Chỉ có thể
coi là tồn tại mối quan hệ khi chủ thể có đối tượng của mình và đối tượng có
chủ thể của mình. Chúng gắn bó và ràng buộc với nhau, tồn tại bởi nhau và cho
nhau.
Trong mối quan hệ thẩm mỹ cũng vậy, không thể có mối
quan hệ thẩm mỹ nếu thiếu một trong hai yếu tố chủ thể thẩm mỹ hay đối
tượng thẩm mỹ (đối tượng chứ không phải khách thể như nhiều
người quan niệm). Mọi ý định tách rời quan hệ chặt chẽ giữa chủ thể và đối
tượng để tìm kiếm tính thẩm mỹ trong sự vật và hiện tượng đều tỏ ra siêu hình.
Chẳng hạn, viên kim cương dồi dào phẩm chất thẩm mỹ kia đối với người lái buôn
chỉ có giá trị hàng hóa chứ không có giá trị thẩm mỹ. Trong khi đối với một cô
gái ưa trang sức thì khác, phẩm chất thẩm mỹ của viên kim cương nổi lên ở vị
trí hàng đầu khiến cô gái say mê và hứng thú.
Mối quan hệ thẩm mỹ có nhiều nét không giống với
các mối quan hệ khác của con người. Nó không hoàn toàn giống với các mối quan
hệ kinh tế cũng như mối quan hệ chính trị, đạo đức, khoa học, tôn giáo, pháp
quyền… Sự khác biệt nằm trong tính hình tượng của mối quan hệ thẩm
mỹ. Trong các mối quan hệ khác, mặc dù có những đặc trưng riêng cho từng kiểu
loại quan hệ nhưng tất cả vẻ cảm tính, cụ thể đều chìm đi sau những khái quát
trừu tượng có tính luận lý. Mối quan hệ thẩm mỹ có một số biểu hiện không giống
như thế. Bất cứ một đối tượng nào trong mối quan hệ thẩm mỹ cũng đều mang tính
hình tượng. Đó chính là những yếu tố cảm tính, cụ thể của các sự vật, hiện
tượng đa dạng, độc đáo trước các giác quan của con người: chủ thể thẩm mỹ đã
cảm nhận trực tiếp chúng bằng hình tượng của chính chúng.
Tóm lại, mối quan hệ thẩm mỹ của con người với
thực tại - đối tượng nghiên cứu riêng biệt của mỹ học, cần được quan niệm như
trên. Tuy nhiên, do mối quan hệ thẩm mỹ được phản ánh trong một hình thái
ý thức đặc thù là nghệ thuật và do nghệ thuật là hình thái biểu hiện tập trung
và cao độ của mối quan hệ thẩm mỹ, nên mỹ học không thể không nghiên cứu
nghệ thuật. Điều cần lưu ý chính là cấp độ quan tâm nghiên cứu nghệ thuật
của mỹ học so với triết học và các ngành nghệ thuật học. Không xác định được
điều này sẽ khó tránh khỏi sự trùng lập về cấu trúc tri thức mà không ít giáo
trình mỹ học đã mắc phải.
Để nói một cách ngắn gọn, ta có thể coi toàn bộ
đời sống thẩm mỹ và nghệ thuật là đối tượng nghiên cứu của mỹ học. “Toàn
bộ thế giới cùng toàn bộ quá trình diễn ra trong thế giới, con người cùng tất
cả nền văn hóa của con người, ở một phương diện và trong một mức độ nào đó
chúng đều có giá trị đối với con người như một giống loài nghĩa là đều có giá
trị thẩm mỹ, chúng đều là môi trường của các nhu cầu mỹ học, là đối tượng
nghiên cứu của mỹ học” (Bôrev)1. Ở đây cần hết sức tránh nhầm lẫn hai khái
niệm thẩm mỹ và mỹ học. Cũng như sự khác biệt giữa lịch sử và sử học, văn
chương và văn học… thẩm mỹ hoàn toàn không phải là mỹ học. Đó
là sự khác biệt giữa đối tượng và khoa học nghiên cứu đối tượng. Chúng cần được
phân biệt rạch ròi và dứt khoát.










Không có nhận xét nào: