PGS.TS. ĐOÀN ĐỨC PHƯƠNG
(Bộ môn Lí luận văn học – Khoa Văn học)
“Mỗi người trong chúng ta, dù là con người tầm thường nhất,
cũng tượng trưng cho một toàn bộ khó quan niệm những cố gắng của tự nhiên và
của con người được theo đuổi không ngừng qua nhiều triệu thế kỉ. Chỉ riêng điều
này có lẽ đủ để làm cho chúng ta xem xét tia lửa mà chúng ta mang trong người
như là vô cùng quý giá và cuộc sống như là một cái gì quan trọng nhất”.
Những dòng nhật ký ấy Hoài Thanh viết ở Huế tháng 11/1934,
khi Hoài Thanh còn rất trẻ và đi “tìm cái đẹp trong nghệ thuật đã trở thành lí
tưởng của cuộc đời ông. Trên hành trình một đời văn, một đời người, với “tia
lửa” của riêng mình, Hoài Thanh bao giờ cũng thể hiện khát vọng yêu cuộc sống
và con người với tất cả tấm lòng chân thực nhất, những rung động tinh tế, sâu
sắc, độc đáo nhất. Đấy là cái “tạng” của Hoài Thanh, là phong cách Hoài Thanh.
Văn học cũng như phê bình văn học rất cần sự đa dạng, độc
đáo của những cá tính sáng tạo; nói cách khác, sự tồn tại và phát triển của văn
học, của phê bình văn học không thể tách rời phong cách. Xét cho cùng, bất cứ
nghệ sĩ sáng tạo văn chương nào cũng có đặc điểm riêng của mình, nhưng phong
cách thì không thể ai cũng có. Phong cách - đó là kết quả sáng tạo không mệt
mỏi của mỗi nghệ sĩ và “tương lai chỉ thuộc về những ai nắm được phong cách”
(V.Hugo). Chính Hoài Thanh có lần viết về phong cách trong phê bình văn học :
“Chớ vội đi tìm cái gọi là phong cách. Hãy cứ nghiên cứu thật sâu, thật kỹ,
gắng phát hiện những vấn đề ẩn khuất bằng cả tâm hồn và trí tuệ của mình, kỳ
thật chín. Sau đó hãy cầm bút. Và hãy cố biểu đạt sao cho chính xác nhấtm gọn
nhất ý tưởng của mình. Lúc này, phong cách tự nó sẽ đến. Không phải mất công
tìm kiếm gì cả. Bởi vì phong cách chính là tổng thể quá trình sáng tác đó”.
Thật đúng vậy, phong cách Hoài Thanh toát lên từ toàn bộ cuộc đời và văn nghiệp
của ông.
Từ đầu những năm ba mươi của thế kỉ XX, tên tuổi Hoài Thanh
bắt đầu được chú ý với cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật hay “nghệ
thuật vị nhân sinh”. Khởi nguồn sâu xa của cuộc bút chiến này là việc phê bình
tập truyện ngắn Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan. Đầu tháng 8/1935, trên Tiểu
thuyết thứ bẩy số 62, Hải Triều có bài khen ý nghĩa xã hội của tập truyện
trên. Ngay sau đó, trên báo Tràng An số ra ngày 15/8/1935, Hoài Thanh có
bài Văn chương là văn chương phủ nhận quan điểm của Hải Triều và đề cao
giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Cuộc tranh luận kéo dài đến năm 1939 với hai
phía của chiến tuyến : một bên cùng với Hải Triều là Hải Thanh, Hải Khách (Trần
Huy Liệu), Hải Âu (Trịnh Xuân An), Hồ Xanh, Lâm Mộng Quang, Phan Văn Hùm...;
một bên cùng với Hoài Thanh là Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Thiều Quang, Lê
Quang Lộc, Lan Khai... Phía Hoài Thanh bị “kết án” là thoát li, hình thức chủ
nghĩa, vị nghệ thuật. Sự thực, Hoài Thanh chỉ muốn nhấn mạnh đặc trưng thẩm mỹ
của văn chương, chứ ông không có ý phủ nhận ý nghĩa xã hội của văn chương,
trách nhiệm xã hội của người cầm bút ; trên Tiểu thuyết thứ bẩy 23/5/1935,
Hoài Thanh khẳng định : “Văn chương có ảnh hưởng lớn vì văn chương hun đúc tinh
thần người đời. Văn chương không có quyền luôn luôn ở trên mấy tầng mây cao
thẳm, lãnh đạm ngắm những cảnh phong ba dữ dội ở đời” (Cần có một thứ văn
chương mạnh mẽ hơn). Quan điểm ấy được Hoài Thanh phát triển sâu sắc hơn
trong cuốn Văn chương và hành động (viết năm 1936 với sự góp mặt của Lê
Tràng Kiều và Lưu Trọng Lư). Cuốn sách vừa ra đời đã bị thực dân thu hồi và cấm
lưu hành (mãi đến năm 1998 mới tìm lại được và ra mắt công chúng). ở cuốn sách
ấy, một người “vị nghệ thuật không thể có những dòng đầy nhiệt huyết như thế
này : “Là một người Việt Nam
ở thời bây giờ trên vai ta mang nặng những trách nhiệm không thể từ chối
được... Trước tình hình như vậy, vòng tay đứng nhìn là một tội ác... Chúng
tôi nhận rằng nhà văn cũng phải hành động như mọi người : hành động bằng việc
làm và hành động bằng ngòi bút”[1].
Năm 1942, Hoài Thanh và Hoài Chân viết Thi nhân Việt Nam,
cuốn sách để đời trong văn nghiệp Hoài Thanh, cuốn sách góp phần quyết định tạo
nên tên tuổi Hoài Thanh. Trong hàng trăm nhà thơ, hàng vạn bài thơ, nhà phê
bình đã chọn ra 46 nhà thơ, 169 bài thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ Mới. Trần
Mạnh Hảo viết một cách hình ảnh : “Thơ Mới khi ra đời như kỳ hoa dị thảo mọc
lên một cách hoang hóa từ khắp rừng núi, đồng bằng, đô thị Việt Nam.
Hoài Thanh và Hoài Chân đã mất nhiều công sức tìm ra những tinh hoa, thâu tóm
những loài hoa cỏ kỳ lạ điển hình nhất của rừng hoang Thơ Mới, trồng vào khu
rừng riêng có chọn lọc, rồi rào vườn bách thảo thi ca lại đặng coi sóc, gìn giữ
lưu lại cho hậu thế được thỏa sức ngắm nhìn”[2]. Những bài thẩm bình của Hoài Thanh với
từng nhà thơ thực sự là những bài thơ và bài tổng kết phong trào Thơ Mới mang
tên Một thời đại trong thi ca thực sự là một bản trường ca, “khúc tuyệt
xướng” về Thơ Mới. “Đọc Thi nhân Việt Nam, trước hết ta gặp một nhà
thơ ở giữa các nhà thơ” (Hoàng Trinh). “Nếu các nhà thơ trong phong trào Thơ
Mới là Bá Nha thì họ đã có một Tử Kỳ chính là Hoài Thanh” (Ngô Văn Phú). Hoài
Thanh đã xây nên “lâu đài kiến trúc hài hòa, đầy chất thơ” (Đỗ Đức Hiểu). Thi
nhân Việt Nam là “một công trình của thế kỉ” (Nguyễn Văn Hạnh). “Rồi người
đời sẽ quên dần và quên hết các chức tước, các trọng trách mà ông giữ, để chỉ
còn và còn mãi mãi tác giả Thi nhân Việt Nam (Phong Lê).
Cuốn sách Nói chuyện thơ kháng chiến (1951) tập hợp
những bài nói chuyện về thơ của Hoài Thanh trước đông đảo công chúng trên những
nẻo đường đầy gian lao mà anh dũng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trước sau
Hoài Thanh vẫn là một nhà nghệ sĩ dạt dào tình cảm dân tộc, đồng bào và thiết
tha yêu thương quê hương đất nước. Với sự đồng cảm sâu xa, Hoài Thanh luôn
khẳng định “nội dung của thơ ca kháng chiến là tình yêu nước, và không có gì
ngoài tình yêu nước, không có gì ngoài những phương diện của tình yêu nước”[3], đồng thời Hoài Thanh cũng nhiệt tình ủng
hộ khuynh hướng đại chúng trong hình thức biểu hiện. Tiếp tục duy trì những
thao tác đã dùng khi viết Một thời đại trong thi ca, nhà phê bình đã
quan sát thơ kháng chiến từ nhiều bình diện : cơ sở xã hội, đội ngũ sáng tác,
nội dung trữ tình, thể thơ... Trên cái nền hào hùng của cuộc kháng chiến và
không khí sôi nổi của phong trào sáng tác thơ ca quần chúng, Hoài Thanh đã phác
họa chân dung những con người mới của một thời đại mới, nhân vật công nông
binh, đồng thời ông chọn lọc và giới thiệu những bài thơ kháng chiến tiêu
biểu : Viếng bạn (Hoàng Lộc), Nhớ (Hồng Nguyên), Bài ca vỡ đất
(Hoàng Trung Thông), Người dân quân xã (Vĩnh Mai), Lượm, Lên Tây Bắc (Tố
Hữu) v.v... Trong bản giao hưởng thơ ca kháng chiến, Nói chuyện thơ kháng
chiến của Hoài Thanh đã là một nốt nhạc trong trẻo chan chứa niềm tự hào và
tin yêu, tiếp thêm sức mạnh cho những người kháng chiến.
Hoài Thanh đặc biệt chú ý đến văn học trung đại. Năm 1943,
một năm sau khi xuất bản Thi nhân Việt Nam, ông viết Một phương diện
của thiên tài Nguyễn Du – Từ Hải đăng trên báo Thanh Nghị ; cũng năm
đó, trên tờ Vì Chúa nguyệt san số 238, ông viết Một vài ý kiến về
quyển “Nguyễn Du và Truyện Kiều” của ông Nguyễn Bách Khoa bác bỏ những quan
điểm lệch lạc khi nghiên cứu Truyện Kiều. Sau này, do yêu cầu nghiên cứu
và giảng dạy, Hoài Thanh còn viết khá nhiều bài về tác phẩm của Nguyễn Du,
nhưng có lẽ bài viết hay nhất của ông về Truyện Kiều là Quyền sống
của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (1949). Viết về Truyện
Kiều, “văn phong và ngôn từ của Hoài Thanh, chủ yếu do khả năng cảm thụ
tinh tế, sâu sắc của tác giả, có phần gần gũi và kế thừa ngôn từ văn phong của
Mộng Liên Đường chủ nhân, của Thập Thanh Thị, của Chu Mạnh Trinh – những nhà
thẩm bình Truyện Kiều kiệt xuất - đồng thời vẫn có một nét duyên dáng,
độc đáo riêng biệt mà theo ý chúng tôi, trước hết là giá trị gợi cảm, mở rộng
trường liên tưởng đối với người đọc (Đặng Thanh Lê). Hoài Thanh còn viết về Bình
ngô đại cáo và thơ Nôm của Nguyễn Trãi, về Phan Trần, Hoa Tiên, Chinh
phụ ngâm, về thơ văn Nguyễn Đình Chiểu v.v... Hoài Thanh đã làm được điều
mà nhiều nhà nghiên cứu khác không làm nổi, là làm sống lại những tác phẩm thời
quá khứ, khiến cho “những bông hoa, kể cả những loại không phải là hoa khôi, đã
trải qua hàng trăm năm sương giá trở thành thắm tươi hơn, có khi còn thắm tươi
hơn ngày mới nở” (Trương Chính)[4].
Nhưng văn học hiện đại mới là mối quan tâm hàng đầu và
thường xuyên của Hoài Thanh. Các tác gia lớn trong văn chương dân tộc được Hoài
Thanh đặc biệt ưu ái. ở văn học cận đại Việt Nam, những năm cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX, Hoài Thanh chú ý tới Phan Bội Châu; còn bây giờ, ở văn học hiện đại
Việt Nam, Hoài Thanh chú ý tới Hồ Chí Minh và Tố Hữu với tư cách là hai nhà thơ
cách mạng hàng đầu mà tác phẩm của họ có sức động viên rất lớn với quần chúng
nhân dân. Hoài Thanh luôn có ý thức “học tập Bác qua thơ Bác” ; bằng cảm quan
nhạy bén, linh khiếu thẩm bình văn chương tinh tế, sắc sảo, từ vẻ đẹp của thơ
Bác, Hoài Thanh đi sâu khám phá vẻ đẹp nhân cách Hồ Chí Minh. Hoài Thanh luôn
theo sát các chặng đường thơ Tố Hữu, nhất là từ tập Việt Bắc trở đi, nhà
phê bình thường xuyên có những phát hiện mới về thơ Tố Hữu ở cấp độ chi tiết
nghệ thuật ; chẳng hạn, Hoài Thanh nhận ra “giọng thơ tâm tình” trong Nước
non ngàn dặm : “Bài thơ dài trên ba trăm câu mà gần như không một lần lỡ
nhịp ngang cung. Bài thơ ngọt lịm, đúng là một tiếng ru. Một tiếng ru day dứt
không thôi. Bởi ru đây không phải là ru để ngủ, để quên, mà để đừng quên”[5]. Hoài Thanh viết về Hòn Đất của
Anh Đức, về thơ của Giang Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Lưu Quang
Vũ, Cảnh Trà v.v... Cũng như với các nhà thơ mới trước kia, Hoài Thanh rất trân
trọng các nhà thơ trẻ của thời đại cách mạng, “Con mắt xanh” của nhà phê bình
tài hoa đã làm chất kim cương trong thơ họ lấp lánh tỏa sáng, nói như Chế Lan
Viên : “Cái hay của Hoài Thanh là sau việc đánh giá cao Thơ Mới như vậy, anh
lại góp phần vào việc làm ra một nền thơ cách mạng cao hơn, mới hơn, mới hơn về
nội dung cách mạng”[6]. Không những thế, Hoài Thanh đã bắt đầu tập
hợp tư liệu để viết một bài tổng kết về thơ ca hiện đại kiểu Một thời đại
trong thi ca ; tiếc là ông đã ra đi quá sớm, không kịp thực hiện dự định
cao đẹp ấy của đời ông.
Một đời cầm bút và sáng tạo, Hoài Thanh đã để lại trong văn
chương dấu ấn thật khó phai mờ. Dấu ấn độc đáo đó thể hiện trong quan niệm nghệ
thuật, phương pháp phê bình, tính cách phê bình của Hoài Thanh.
Hoài Thanh luôn trân trọng, mến yêu cuộc sống và càng yêu
cuộc sống, yêu con người, Hoài Thanh càng say mê văn chương vì văn chương làm
cho người ta thêm quý yêu cuộc sống và con người. “Ông Hoài Thanh đã quan niệm
Thơ không chỉ vì Thơ mà trước hết còn vì cuộc sống, vì con người. ở đây, tình
yêu thơ cũng là tình yêu con người với mọi góc cạnh lung linh của tâm hồn, là
tình yêu cuộc sống với đầy đủ những vui buồn...” (Chu
Hảo). Say mê văn chương, Hoài Thanh đề cao, khẳng định giá trị đích thực của
văn chương là ở phẩm chất nghệ thuật của nó, ở bản chất của nó, đó là cái đẹp,
nhà văn Nga K.Pautôpxki có câu nói nổi tiếng : “Niềm vui của nhà văn chân chính
là niềm vui của người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp” – phải chăng “cái đẹp”
ấy là vẻ đẹp của cuộc sống, vẻ đẹp của tâm hồn, là cái đẹp ở nội dung miêu tả,
cái đẹp ở phương thức biểu hiện của tác phẩm ? Đức Năng, người con thứ hai của
Hoài Thanh, tưởng nhớ người cha kính yêu của mình “cả một đời hướng tâm vì cái
đẹp : cái đẹp của cuộc sống và cái đẹp của nghệ thuật”. Văn Giá nhấn mạnh :
“Hoài Thanh trước sau vẫn nhất quán trong một bản chất thi sĩ đích thựcmột: say
mê đi tìm cái đẹp và “sùng bái” cái đẹp (chữ dùng của cụ Đặng Thai Mai)...” Với
Hoài Thanh, chính cái đẹp mới làm nên phẩm chất văn chương. “Đặc sắc mỗi nhà
thơ chỉ trong những bài thơ hay”[7]. “Thơ chưa hay thì có cũng bằng không có”[8]. Nhưng cái đẹp, cái hay của văn chương
phải mang bản sắc riêng biệt, độc đáo. “Một truyện ngắn, một bài văn phê bình,
hay một bài văn nào khác, đều cần phải có cái đặc sắc của nó” (Phê bình
văn – Tiểu thuyết thứ bẩy, 14/9/1935). Văn chương là sản phẩm tinh thần
của con người, một sản phẩm đặc thù mang dấu ấn độc đáo của cá tính sáng tạo.
“Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này, nhưng thế giới
này trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng” (Ngoại cảnh trong
văn chương – Tràng An, 10/12/1935). Hoài Thanh còn chỉ rõ cội nguồn mọi
sáng tạo độc đáo là ở tài năng, nhân cách của người nghệ sĩ. Cái tài phải đi
với cái tâm, một cái tâm trong sáng, thành thật. Trong bài Nhỏ to viết
cuối sách Thi nhân Việt Nam,
Hoài Thanh tâm sự với bạn cùng nghề văn : “Danh vọng quý thật, nhưng còn có
điều quý hơn danh vọng, quý hơn hết thảy : lòng ngay thẳng mà ít nhất cũng phải
giữ trọn trọng văn chương”. Sống thành thực, viết thành thực là một tư tưởng
nhất quán trong toàn bộ cuộc đời Hoài Thanh, ông chỉ viết những điều mình xúc
động, cảm nghĩ thực sự, không vay mượn của ai, không nói những điều trái với
rung cảm của lòng mình. Thật chẳng phải ngẫu nhiên Ngô Tất Tố viết ở đầu cuốn Phê
bình Nho giáo của Trần Trọng Kim (1938): “Tặng Hoài Thanh Nguyễn Đức
Nguyên, một người trong sạch, thành thật và có nghị lực trong lớp thanh niên
ngày nay”.
Quan niệm nghệ thuật của Hoài Thanh là cơ sở cho phương
pháp phê bình văn học của ông. Yêu cái đẹp, Hoài Thanh chỉ chọn cái đẹp, cái
hay trong văn chương để bình, chứ không phê, và bình bằng cả tâm hồn mình, bằng
cả con người văn hóa của mình. “Nếu gọi bằng nghiệp thì bình thơ vẫn là
cái nghiệp rất vui. Còn gì vui bằng cùng với ý đẹp, lời đẹp và nhạc
điệu, âm thanh đi vào những tâm hồn trong sáng, đi vào những nơi trong sáng
nhất của tâm hồn. Khó có những chuyến đi nào say người hơn”[9]. Với Hoài Thanh, phê bình văn học đã là
một niềm đam mê lớn, phê bình cũng là văn chương, ông đã nâng công việc bình
thơ, bình văn lên thành một nghệ thuật, nó đòi hỏi nhà phê bình phải viết cho
hay, cho hấp dẫn, phải có những sáng tạo mới mẻ. “Phê bình một quyển sách phải
nói cho đúng đã đành, mà lại cần phải nói cho hay nữa, làm thế nào cho câu nói
của mình có đặc sắc. Đối với một quyển sách, mình có ý kiến gì là lạ, mới nên
hạ bút phê bình, không thì thôi. Phê bình cũng cần phải có sáng tạo là thế”.
Hoài Thanh phát hiện cái đẹp, cái hay, cái mới, cái lạ trong văn chương bằng ấn
tượng trực cảm, sự đồng điệu của tâm hồn, “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. “Mỗi
người có một cái “tạng” riêng, “tạng” của Hoài Thanh trong phê bình là trực
giác, ấn tượng. Ông rất tự tin vào cảm xúc tự nhiên của mình, và thường là ông
đúng” (Phạm Xuân Nguyên). “Lối phê bình của Hoài Thanh là đi trực tiếp đến cái
thần của sự vật, gợi lên cái tứ của bài thơ ; nó gần với sáng tác mà xa với
khoa học ở cách làm, nhưng vẫn đạt đến ý nghĩa khoa học vì nó cũng phát hiện ra
chân lí” (Nguyễn Thị Thanh Xuân). Nhưng phương pháp phê bình văn học của Hoài
Thanh không đơn thuần là phê bình ấn tượng mà còn là so sánh, xã hội học, hiện
tượng học, tiếp cận văn hóa – lịch sử... Khi bình thơ văn cổ điển, “với tinh
thần biểu dương cổ vũ, gạn đục khơi trong, kế thừa di sản, Hoài Thanh đã vận
dụng sở trường bình thơ kiểu thi thoại của ông để chỉ ra những bài thơ
hay, câu thơ hay, hình ảnh hay một cách xác đáng” (Trần Đình Sử). Để nhận diện
chân dung tâm hồn các nhà thơ mới, Hoài Thanh dùng phương thức so sánh ở
cấp độ tác giả : “Nguyễn Bính nhà quê hơn cả nên chỉ ưa sống trong tình quê...
Anh Thơ là một người thành thị đi du ngoạn nên chỉ thấy cảnh quê. Bàng Bá Lân
gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính... Nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ”[10]. Hoài Thanh luôn thực hiện phân tích
tác phẩm gắn với đặc trưng thể loại, phong cách, thi pháp : với những tác
phẩm truyện như Truyện Kiều, Hoa Tiên, Phan Trần... Hoài Thanh
chú ý khám phá thế giới nhân vật (Thúy Kiều, Từ Hải, Dao Tiên, Lương
Sinh, Kiều Liên, Phan Sinh...) ; với các tác phẩm thơ trữ tình như Nhật
ký trong tù, Hoài Thanh ít nói tới sự kiện mà quan tâm nhiều đến thế giới tâm
tư tình cảm của nhà thơ : “Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc, ánh sáng
vẫn ngời lên, ánh sáng của một tấm lòng thương người và yêu mến đời vô hạn”[11]. Có thể nói, phương pháp phê bình văn
học của Hoài Thanh rất linh hoạt, uyển chuyển, “ông vừa tiếp nối cung cách bình
thơ của các thi nhân – hiền giả trong truyền thống văn hiến của cha ông, vừa
kết hợp và ẩn chứa trong lời bình cái quan niệm bản chất thơ ca của nhiều xu
hướng văn chương tiến bộ, trong lúc tâm hồn ông đã lộng gió phương Tây...”
(Trường Lưu).
Con người Hoài Thanh , tính cách Hoài Thanh hiện rõ trên
những trang văn. Nếu nghệ sĩ là người tôn thờ cái đẹp, sáng tạo cái đẹp, giàu
xúc cảm và có trí tưởng tượng bay bổng thì Hoài Thanh là một nghệ sĩ đích thực
trong phê bình, ông là nhà phê bình – nghệ sĩ. Trong văn chương, tác phẩm
hay chính là cái đẹp và Hoài Thanh xác định cho mình nhiệm vụ là “bình thơ
hay”, “bình cái hay của thơ”. Tính cách nghệ sĩ của Hoài Thanh còn thể hiện rõ
ở năng lực đồng cảm, cảm thông với người sáng tác. “Nét đồng điệu của tâm hồn
là yếu tố tiên quyết giúp tác giả lắng lòng nghe thấy cái huyền diệu, cái tinh
tế trong những hồn thơ mong manh mà người khác không cảm thấy được... Ông đã
tạo ra một điệu văn, đúng hơn, một điệu thơ - phê bình, để dẫn ta
vào một thế giới trong đó hồn ông và hồn thi nhân nhập hòa làm một và được biểu
hiện bằng những câu thơ linh diệu” (Thiếu Mai). “Kể từ Thi nhân Việt Nam cho
đến nay, Hoài Thanh vẫn là nhà phê bình có cách cảm thụ thơ tinh vi và sâu sắc.
Ông nhạy cảm và lại thận trọng : ông thường tìm được những điều chủ yếu nhất
của bài thơ, thấy được cái hay của câu chữ vần điệu và cũng thấy được cả cái ấp
úng trong lòng tác giả chưa giãi bày hết được lên thơ” (Vũ Quần Phương). ở
người nghệ sĩ Hoài Thanh, sự tinh tế, sâu sắc trong phong cách phê bình lại
được chắp cánh bởi tư duy hình tượng, bởi những liên tưởng sinh động. Có cảm
giác trong tay ông, cây đũa thần – phê bình chạm tới đâu là ở đấy tất cả sống
dậy, có hồn, khơi gợi tưởng tượng và cảm xúc. Một khái niệm trừu tượng như thơ
ca, dưới ngòi bút Hoài Thanh “thơ phải là một tia sáng nối cõi thực và cõi
mộng, mặt đất với các vì sao”. Đánh giá vị trí của Tản Đà trong tiến trình thơ
ca Việt Nam,
Hoài Thanh khẳng định đó là “người đã dạo những bản đàn mở đầu cho cuộc hòa
nhạc tân kỳ đương sắp sửa”. Hoài Thanh hình dung xã hội Truyện Kiều,
“cái xã hội ghê tởm đó sống nhơ nhuốc dưới ngòi bút của Nguyễn Du với cái màu
da nhờn nhợt của Tú Bà, cái bộ mặt mày râu nhẵn nhụi của Mã Giám
Sinh, cái vẻ chải chuốt, dịu dàng của Sở Khanh, cái miệng thì xoen
xoét của Bạc Bà, Bạc Hạnh”[12].
Nếu nhà lí luận thiên về phê bình lí trí thì nhà nghệ sĩ
thiên về phê bình tình cảm. Hoài Thanh là nhà phê bình tình cảm. “Con người
Hoài Thanh giản dị và giàu tình như thế nào thì phong cách viết của anh như vậy
“[13] (Vũ Đức Phúc). Cả cuộc đời đã theo tiếng
gọi của nghệ thuật, nhưng với Hoài Thanh, mọi cảm hứng sáng tạo nghệ thuật đều
chung một cội nguồn sâu xa là tình cảm. Phê bình không phải là chuyện tỉa tót
văn chương ; sức nặng của lời phê bình trước hết là ở giá trị chân lí – những
chân lí của cuộc đời chứa đựng trong tác phẩm phải thông qua cái tình của nhà
phê bình mới đến được trái tim người đọc. Chính Hoài Thanh đã viết : “Muốn phân
tích văn thơ cho chính xác không thể nào không cần đến ít nhiều rung cảm nghệ
thuật. Nhưng rung cảm nghệ thuật cũng là một thứ tình cảm, và rung cảm đúng hay
sai thường cũng là do những tình cảm chủ đạo trong đời sống mỗi chúng ta quyết
định”[14]. Tình cảm luôn là nguồn lực lớn lao chi
phối ngòi bút Hoài Thanh. Nhà phê bình đã hướng tới nhiều thể loại văn học (ca
dao, truyện, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký v.v...) nhưng ông dành nhiều công
sức nhất (và cũng thành công nhất) ở công việc bình thơ, vì thơ là tiếng nói
của tình cảm, thơ diễn tả một cách chân thật và rung động những tâm tư, tình
cảm sâu sắc của con người. Là một nhà thơ giữa các nhà thơ mới, Hoài Thanh
không cần dùng một từ ngữ nào đặc tả nỗi buồn hoài cổ trong thơ Huy Cận, vậy mà
người đọc vẫn cảm nghe được nỗi cô đơn, trống vắng đến lạnh người trong cái xa
xôi vô tận của cõi đời : “Nhưng con đường về quá khứ đi càng xa, càng cô tịch,
tứ bề càng vắng lặng mênh mông. Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn du đã có lần
nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã nghe trong
hồn hơi gió lạnh buốt từ vô cùng đưa đến. Một Pascal hay một Hugo trong lúc đó
sẽ rùng mình, sẽ hốt hoảng ; với cái điềm đạm của người phương Đông thời trước,
Huy Cận chỉ lặng lẽ buồn”[15]. Ngòi bút trữ tình của nhà phê bình phát
hiện vẻ đẹp tâm hồn trong thơ Tố Hữu : “Từ ấy để lại những hình ảnh khá
đậm về nhà thơ. Ta thấy anh nện gót trên đường phố Huế để tỏ thái độ khinh ghét
đối với cả một lối sống đớn hèn. Ta thấy anh một mình trong xà lim Quy Nhơn,
tim nhức nhối vì một tiếng rao đêm...”[16]. Còn đây, trong một tác phẩm tự sự, tiểu
thuyết Hòn Đất, nhà phê bình xúc động bởi một chi tiết rất nhỏ, tưởng
như chẳng mấy ai chú ý tới : “Không những ai nấy đều sẵn sàng hi sinh vì nghĩa
lớn, ở đấy còn có một cái có khi còn khó hơn đức hi sinh nữa : đó là đức quên
mình. Tiêu biểu nhất là chị Sứ. Chị luôn chăm lo cho người khác. ở trong hang, chị
là người uống nước ít nhất và “việc này cũng chỉ có chị biết mà thôi”...[17] Có thể nói như Lưu Liên : “Đấy là kiểu
thưởng thức văn chương rất mộc, rất gốc, rất gần... chỉ có con tim, tấm lòng,
và một niềm say đắm, say trong thơ và đắm nghĩa tình đời”[18].
Văn là người. Qua văn phong phê bình thấy hiện lên một Hoài
Thanh tinh tế, trang nhã, tài hoa. “Bản sắc ấy đưa tác giả vào một diện không
nhiều những nhà phê bình mà nếu bài viết có che tên đi, người đọc vẫn nhận ra
văn ấy, đúng là của con người ấy”[19] (Hồng Diệu). Trong cuộc đời, Hoài Thanh
là một con người từ tốn, khiêm nhường mà sắc sảo ; trong văn chương, Hoài Thanh
đã xây dựng cho mình một bút pháp chân thực mà duyên dáng, hấp dẫn, sâu sắc mà
uyển chuyển, nhẹ nhàng. Đã có lần Hoài Thanh ngợi ca Thế Lữ có tài “điều khiển
đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không cưỡng được”[20]. Đến lượt mình, Hoài Thanh cũng chứng tỏ
một năng lực ngôn ngữ tài hoa không kém. Viết về Chinh phụ ngâm, ông đã
sử dụng một đội quân từ ngữ phong phú để diễn tả mọi cung bậc tâm trạng của
người chinh phụ : câu thơ mênh mang, câu thơ xao xác, câu thơ đau
xé ruột, câu băn khoăn, câu nhẹ lướt như bàn tay âu yếm, câu quấn
quýt, rạo rực yêu đương v.v...[21]. Hoài Thanh dùng nhiều thủ pháp riêng
như so sánh, liên tưởng, gợi không khí, tạo đường viền... làm cho cái hay của
tác phẩm nổi bật lên, đem đến cho độc giả những cảm xúc thẩm mỹ mới mẻ. So
sánh, đối chiếu với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân để làm
nổi rõ chất sáng tạo đầy trí tuệ và thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du khi xây dựng
hình tượng Từ Hải : “Ngờ đâu non ba trăm năm sau, đầu thế kỉ XIX, ở một xứ mà
sinh thời chắc Từ Hải không biết đến, trên bờ sông Lam, Từ Hải còn được tái
sinh một lần nữa. Đã suýt mai một cùng quyển truyện của Thanh Tâm tài nhân, Từ
Hải bỗng được một thiên tài Việt Nam cho sống lại và vinh quang của Từ Hải lần
này mới thật rực rỡ. Cái mộng của Thanh Tâm tài nhân, cái mộng biến Từ Hải
thành một vị anh hùng cái thế, phải có thiên tài Nguyễn Du mới thực hiện
được... Ca tụng uy võ của Từ Hải, Thanh Tâm tài nhân viết : “Không quá ba ngày,
Từ Hải phá một thôi được năm huyện”. “Phá được năm huyện thì còn ra gì ! Nguyễn
Du chỉ bỏ vài chữ và đổi cách đặt câu :
Đòi cơn gió táp mưa sa
Huyện
thành đạp đổ năm tòa cõi Nam
Vẫn chừng ấy mà lời văn mạnh mẽ và khoái trá biết chừng nào[22].
Dường như trong công việc phê bình của mình, Hoài Thanh
luôn chú ý đến sự giản dị và cô đọng trong bút pháp mà vẫn không làm mất đi sự
mềm mại, quyến rũ của nghệ thuật văn chương. Mở bất cứ trang nào của Thi
nhân Việt Nam, người ta cũng thấy những câu văn thật trang nhã, đầy chất
thơ : “Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỉ như cô phụ
trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày
nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hòe phủ trên thi
tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào
đó ta thấy thiếu một điều : một điều cần hơn trăm nghìn điều khác : một lòng
tin đầy đủ”[23]. Huy Cận viết : “Về cảm thụ thơ, phân
tích tinh tế các hồn thơ như trong Thi nhân Việt Nam thì ít ai bằng, có
lẽ chưa ai bằng Hoài Thanh”[24]. Lê Bá Hán nhận xét : “Anh có thể nắm
bắt bén nhạy cái “thần” của một tác giả, khái quát được khá tập trung phần tinh
túy nhất của một hồn thơ. Lắm khi chỉ với vài từ hoặc một câu ngắn gọn, anh
diễn đạt được cái cốt cách của một tác giả. Anh nhắc đến cái ung dung nhưng
khẩn trương, thôi thúc và đanh thép của Sóng Hồng, tiếng nói chân chất
của Thanh Hải, tiếng nói đằm thắm của Giang Nam, tiếng nói mặn mà
của Viễn Phương, cái vị ngây ngất say sưa lí tưởng của thơ Lê Anh
Xuân...”[25].
Ngày 13/7/1980, trong nhật ký, Hoài Thanh nói với hương hồn
người vợ thân yêu của mình : “Nguyên tin rằng, những phần đẹp nhất trong hồn
ta, những việc làm đẹp nhất của chúng ta sẽ cùng với sông núi này, đất trời này
còn mãi !”[26]. Để có một phong cách, một bản lĩnh
riêng, Hoài Thanh đã cố gắng, nỗ lực không ngừng trong văn chương và trong cả
cuộc đời. Niềm tin của ông đang trở thành hiện thực. Những phần đẹp nhất của
tâm hồn ông, những việc làm đẹp nhất của đời ông đang được trân trọng, nâng niu
như trong hằng mơ ước. Mãi mãi, mọi người còn nhớ tới Hoài Thanh, “một con
người tài hoa, rất tài hoa, và hết mực trung thực, trung thực cho đến tận những
ngày cuối cùng đối với thơ và đối với đời”[27] (Vũ Tú Nam), “nhà phê bình văn học lớn
nhất, tài hoa nhất của thế kỉ XX này trên đất nước Việt Nam”[28] (Nguyễn Đình Chú).
Đ.Đ.P.
[1] Tuyển tập Hoài Thanh,
tập 1, NXB Văn học, 1982, tr.65.
[2] Thi nhân Việt Nam, NXB
Văn học, 1988, tr.46.
[3] Nói chuyện thơ
kháng chiến, Văn nghệ, Việt Bắc, 1951, tr.136.
[4] Hương hoa đất nước,
NXB Văn học, Hà Nội, 1979, tr.6.
[5] Tuyển tập Hoài Thanh,
tập 1, Sđd, tr.244.
[6] Bài thơ thôn Vĩ, Sông
Hương xuất bản, Huế, 1987, tr.16.
[7] Thi nhân Việt Nam,
Sđd, tr.345.
[8] Tuyển tập Hoài Thanh,
tập 1, Sđd, tr.304.
[9] Một đôi điều trên
câu chuyện bình thơ, tạp chí Văn học, số 6, 1973, tr.31.
[10] Thi nhân Việt Nam,
Sđd, tr.156.
[11] Thơ văn Nguyễn Ái
Quốc – Hồ Chí Minh trong nghiên cứu phê bình, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội,
1997, tr.172.
[12] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 2, Sđd, tr.233.
[13] Hoài Thanh, tạp
chí Văn học số 2, 1982, tr.41.
[14] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 2, Sđd, tr.240.
[15] Thi nhân Việt Nam, Sđd,
tr.137.
[16] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 1, Sđd, tr.197.
[17] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 1, Sđd, tr.480.
[18] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 1, Sđd, tr.480.
[19] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 1, Sđd, tr.480.
[20] Thi nhân Việt Nam, Sđd,
tr.48.
[21] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 2, Sđd, tr.55.
[22] Tuyển tập Hoài
Thanh, tập 1, Sđd, tr.65.
[23] Thi nhân Việt Nam, Sđd,
tr.46.
In trong: Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học,
(tập sách kỉ niệm 50 năm thành lập Khoa Văn học)
NXB ĐHQGHN, HN, 2006, tr. 79-90
http://khoavanhoc-ussh.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=334:pgsts-oan-c-phng&catid=82:li-lun-phe-binh&Itemid=246









Không có nhận xét nào: