CÙ HUY CHỬ (*)
Điểm lại những mốc chính trong cuộc đời và những công trình chủ yếu trong sự nghiệp nghiên cứu và sáng tạo lý luận của Giáo sư Trần Đức Thảo, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những đánh giá của mình về quan điểm của Giáo sư Trần Đức Thảo trong việc lý giải và phát triển tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và xa hơn là tư tưởng nhân văn của C.Mác. Tác giả đã khẳng định sự trung thành của Giáo sư Trần Đức Thảo đối với quan điểm của C.Mác, đặc biệt là tư tưởng về con người, tư tưởng nhân văn rộng lớn trong đó được thể hiện đậm nét ở Hồ Chí Minh, khẳng định sự nhất quán của Giáo sư trong việc tiếp thu và phát triển chủ nghĩa Mác trên một số vấn đề.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng lớn đối với Giáo sư Trần Đức Thảo. Tư tưởng, cuộc đời cao đẹp của Hồ Chí Minh được Trần Đức Thảo chiêm nghiệm, vận dụng trong hoạt động sáng tạo khoa học cho đến cuối đời, đặc biệt là tư tưởng nhân văn. Trần Đức Thảo, như chúng ta đã biết, là một nhà trí thức yêu nước, một nhà khoa học lớn. Trong tự thuật của mình, ông đã viết như sau: “Trong hành trình của tôi, tôi đã đến với chủ nghĩa Mác qua hai con đường: Thứ nhất, đó là cuộc đấu tranh đòi tự do cho dân tộc của chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, nghiên cứu triết học và lịch sử triết học đã cho tôi thấy rằng chỉ có duy nhất chủ nghĩa Mác – Lênin mới vạch ra con đường đúng đắn để giải quyết những vấn đề cơ bản về phần lý luận khoa học. Trong những năm sau chiến tranh, lần đầu tiên khi được làm quen với những chính văn (tác phẩm nguyên bản) của chủ nghĩa Mác, tôi rất ngạc nhiên bởi những lời nhận xét trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản về khả năng chuyển qua giai cấp vô sản của một bộ phận trí thức tư sản, trong thời kỳ khủng hoảng toàn bộ của chủ nghĩa tư bản qua việc nghiên cứu lịch sử thế giới. Điều này đã định hướng các nghiên cứu triết học của tôi từ những vấn đề đơn thuần là trừu tượng đến việc suy xét một cách toàn diện về tính chân thực của vận động của lịch sử, của tự nhiên, lý, hóa đối với cuộc sống, xã hội và ý thức.(*) Vào thời kỳ mà cuộc đấu tranh giai cấp đã đi đến lúc quyết định thì quá trình tan rã bên trong tầng lớp thống trị, bên trong toàn bộ xã hội cũ mang một tính chất mạnh mẽ và triệt để đến mức một bộ phận của tầng lớp thống trị sẽ tự rời bỏ giai cấp mình và liên kết với tầng lớp, với giai cấp cách mạng, tầng lớp nắm giữ tương lai trong tay họ. Cũng tương tự như trước đây, một bộ phận quý tộc chuyển qua giai cấp tư sản, ngày nay cũng tương tự như vậy, một bộ phận tư sản sẽ chuyển qua giai cấp vô sản. Đặc biệt hơn, một bộ phận những nhà tư tưởng tư sản với sức mạnh công việc của mình, họ có thể nổi lên do am hiểu về lý luận toàn bộ quá trình vận động của lịch sử”(1). Trần Đức Thảo coi triết học của mình là “triết học duy vật biện chứng nhân bản”(2), là cái góp phần sáng tạo chủ nghĩa Mác, gắn bó mật thiết với tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Có thể khái quát một số nét cơ bản như sau : Một là, chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn lớn. Hồ Chí Minh đã chiến đấu không ngừng để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đây là gốc rễ của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, bởi tư tưởng nhân văn luôn luôn lấy con người làm trung tâm, làm mục đích. Nhưng con người luôn luôn tồn tại trong điều kiện tự nhiên (Mác), nghĩa là phải tồn tại vừa chủ quan, vừa khách quan trong một đất nước nhất định và một cộng đồng xã hội, dân tộc nhất định. Hồ Chí Minh đã nhận thức một cách biện chứng sự thống nhất giữa quyền con người và quyền độc lập dân tộc như trong lời mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945. Tư tưởng này là chân lý; nó đã cuốn hút, thuyết phục Trần Đức Thảo ngay từ đầu. Trần Đức Thảo nhận bằng thạc sĩ triết học (1943) tại Trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm, một trong những trường đại học danh giá nhất của Pháp và Âu - Mỹ. Ông cũng là sinh viên ngoại quốc duy nhất học ở trường này, từ khi nó được thành lập cho đến lúc ấy, được cấp bằng thạc sĩ, và đó là bằng thủ khoa. Năm 1944, ông đến Bỉ để nghiên cứu về Husserl và Hêghen. Đây cũng là cơ sở khoa học để sau này, ông nắm được tinh thần căn bản của chủ nghĩa Mác, sáng tạo và chính xác hóa chủ nghĩa Mác.(1)Tháng 12-1944, Trần Đức Thảo bắt đầu hoạt động đấu tranh giải phóng dân tộc trong phong trào Việt kiều tại Pháp. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đông Dương, ở Avignon, ông đã giới thiệu chương trình xây dựng nền dân chủ ở Đông Dương. Tại đây, ông đã tiếp xúc với các nghị sĩ thuộc Đảng Cộng sản Pháp phụ trách nghiên cứu các vấn đề chính trị. Đầu năm 1945, nhân danh Tổng phái đoàn của người Đông Dương, ông cùng kỹ sư Lê Viết Hường và một số người khác đã gặp và làm việc với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp - Maurice Thorez. Tháng 9-1945, ông viết truyền đơn, họp báo ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới được thành lập. Trên tờ Le Monde, khi một nhà báo hỏi: “Người Đông Dương sẽ làm gì khi quân đội viễn chinh Pháp tới?”, Trần Đức Thảo đã trả lời: “Phải nổ súng”. Vì thế mà ông đã bị bắt và bị bỏ tù. Tháng 2-1946, do sự đấu tranh của trí thức Pháp và của Việt kiều, nhà cầm quyền Pháp đã phải thả ông. Trong xà lim nhà tù, ông đã viết bài báo nổi tiếng - Sur L’Indochine (Về Đông Dương), khẳng định quyết tâm giành độc lập của các nước Đông Dương, đăng trên tờ Les Temps Modernes, số 5 năm 1946. Về sau, bài báo này đã được dịch ra tiếng Việt, đăng trên báo Tiền phong, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng trong nhà tù, do chiêm nghiệm và ý thức rõ về sự đối nghịch sâu sắc giữa chủ nghĩa tư bản, đế quốc với các nước dân tộc thuộc địa, Trần Đức Thảo đã hướng tới chủ nghĩa Mác, sau này được thể hiện trong tác phẩm Matérialisme Dialectique (Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng)(3). Đây là tác phẩm được các nhà triết học Pháp và thế giới đánh giá cao, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Năm 1946, tháng 5 và tháng 6, tại Pháp, Trần Đức Thảo đã tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần, xin Người cho về nước để xây dựng Tổ quốc. Nhưng Hồ Chí Minh đã khuyên Trần Đức Thảo ở lại Pháp tiếp tục học tập, nghiên cứu khoa học, hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước, tranh thủ sự ủng hộ của các trí thức Pháp đối với nước ta, nhất là trí thức trong Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1946, Phái đoàn của Chính phủ ta tại Pháp đã chụp ảnh Trần Đức Thảo để làm tư liệu, để kỷ niệm và khi về nước, đã trao tặng một số trong những bức ảnh ấy cho cụ Trần Đức Tiến, thân sinh của GS. Trần Đức Thảo. Năm 1946 - 1947, Trần Đức Thảo đã viết nhiều bài ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Đảng Cộng sản Đông Dương, chống các lực lượng phản cách mạng, chống bọn thực dân Pháp quay lại xâm lược Đông Dương. Tháng 9-1948, ông đăng một bài báo nổi tiếng trên tạp chí Les Temps Modernes, số 36: Nội dung và thực chất của hiện tượng luận tinh thần. Với bài báo này, Trần Đức Thảo được giới triết học coi như đã tạo lập một trường phái mới về Hêghen, một xu hướng triết học tiến bộ.(3) Ngày 4-9-1949, Trần Đức Thảo được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm thành viên Hội đồng Giáo dục Quốc gia. Khi đó, Trần Đức Thảo đang ở Pháp. Cuối năm 1949 - đầu năm 1950, Trần Đức Thảo đã có cuộc tranh luận nổi tiếng với Jean Paul Sartre về chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa hiện sinh. Sartre công nhận chủ nghĩa Mác về chính trị và lịch sử, nhưng không coi trọng về triết học. Ông coi chủ nghĩa hiện sinh có giá trị triết học hơn. Trần Đức Thảo khẳng định chủ nghĩa Mác có giá trị toàn diện, cả triết học, cả lịch sử - xã hội. Cuộc tranh luận không đi đến kết thúc, vì Sartre chưa đọc hết các tác phẩm của Husserl và C.Mác. Cuộc tranh luận ấy đã đưa Trần Đức Thảo đến sự đoạn tuyệt với chủ nghĩa hiện sinh để nghiêng hẳn về phía chủ nghĩa Mác. Năm 1951, Trần Đức Thảo cho xuất bản cuốn Hiện tượng học và Chủ nghĩa duy vật biện chứng, sau đó ông về nước tham gia kháng chiến. Ông nói: “Về nguyên tắc, tôi khẳng định là đứng hẳn về phía chủ nghĩa Mác. Từ đó, tôi quyết định trở về Việt Nam. Cần phải làm cho cuộc đời ăn nhập với triết học, thực hiện một hành động thực tế là điều đáp trả những kết luận, những lý thuyết của cuốn sách của tôi”(4). Về nước, Trần Đức Thảo đã tham gia những công tác chủ yếu sau đây: - Từ 1952 đến đầu 1953, làm việc tại văn phòng Tổng Bí thư Trường Chinh. - Năm 1953-1954, nghiên cứu thực tế trong quân đội, trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp ở Việt Bắc, tham gia cải cách ruộng đất ở Phú Thọ. - Năm 1954, tham gia Ban nghiên cứu Văn - Sử - Địa, tiền thân của ủy ban Khoa học Xã hội và Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng sau này. Trong thời gian này, ông đã công bố nhiều tác phẩm trên Tạp chí Văn - Sử - Địa. - Ngày 27-11 đến 8-12-1954, dự hội nghị và phát biểu nhiều ý kiến về vấn đề đại học, nêu lên những quan điểm đúng và sáng tạo, có tầm nhìn xa: Phải cân bằng và chủ động cả hai mặt giáo dục chuyên nghiệp và nghiên cứu khoa học để nâng cao chất lượng đào tạo, bảo vệ uy tín của khoa học Việt Nam trên thế giới, nhất là khoa học xã hội, tiếp cận với thành tựu khoa học hiện đại của thế giới, khẳng định vị trí và uy tín của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế về triết học, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, ngoại giao…, đào tạo các nhà khoa học, nghệ sĩ, cán bộ có tài năng phục vụ xây dựng đất nước và phát triển khoa học (Xem: Kỷ yếu về Hội nghị trên, được in trong: Nguyễn Văn Huyên. Toàn tập, t.3, Nxb Giáo dục). - Từ 1954 đến 1956 là Giáo sư Đại học Hà Nội, Phó giám đốc, Trưởng Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. - Sau sự kiện Nhân văn - Giai phẩm, theo gợi ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh và Ban Tổ chức Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên đã bố trí Trần Đức Thảo về công tác tại Nhà xuất bản Sự thật để có điều kiện tiếp tục nghiên cứu, sáng tạo triết học, liên hệ, trao đổi khoa học với các nhà triết học các nước, đặc biệt là các nhà triết học Pháp. Từ đây, công việc chủ yếu của Trần Đức Thảo là nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, sáng tạo khoa học. Nhiều tác phẩm đã được ông trực tiếp gửi cho cơ quan lý luận của Trung ương Đảng, cho các đồng chí lãnh đạo của Đảng. - Hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn gửi thiếp chúc tết đến Trần Đức Thảo. Ông đặc biệt trân trọng, quý giá và giữ gìn thiếp chúc tết mùa xuân 1968. - Từ tháng 3-1991 đến tháng 4-1993, Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cử Trần Đức Thảo đi Pháp để nghiên cứu một số vấn đề khoa học. Thời gian này, ông tiếp tục sáng tạo chủ nghĩa Mác, viết nhiều tác phẩm có giá trị. Ngày 24-4-1993, Trần Đức Thảo qua đời tại Paris. Ông được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì. Mấy nét khái quát trên đây về cuộc đời và sự nghiệp của GS.Trần Đức Thảo là minh chứng hiển nhiên cho điều ông là một trí thức yêu nước, một nhà khoa học đi đúng con đường mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra: chiến đấu và sáng tạo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân, thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh. Nhưng, điều quan trọng là, với tư cách một nhà khoa học, Trần Đức Thảo đã sáng tạo những tác phẩm để phát huy chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. - Từ khi về nước đến năm 1955, trên Tạp chí Văn - Sử - Địa, GS.Trần Đức Thảo đã công bố những công trình nghiên cứu: Tìm hiểu giá trị văn chương cũ(5), Bài Hịch tướng sỹ của Trần Hưng Đạo và xã hội Việt Nam trong thời kỳ thịnh của chế độ phong kiến(6), Nội dung xã hội Truyện Kiều(7), … - Từ năm 1957 đến năm 1990, Trần Đức Thảo đã viết những tác phẩm: Sự biện chứng của xã hội dân tộc, Bàn về thời dựng nước (8-1977), Về những cái cơ bản chung của lịch sử dân tộc (11-1977)(8)… Trong những tác phẩm này, ông đã phân tích mối quan hệ biện chứng và sự chuyển hóa giữa tình cảm yêu nước và tư tưởng yêu nước trong mối liên hệ mật thiết với sự phát triển kinh tế qua các thời kỳ và cuộc đấu tranh của dân tộc ta chống sự xâm lược của nước ngoài. - Trong nhiều thư gửi cho các ông Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Trần Đức Thảo đã đề nghị tăng cường nghiên cứu lịch sử dân tộc, tái bản các tác phẩm lịch sử có giá trị để nhận thức về lịch sử dân tộc không bị gián đoạn, để lịch sử dân tộc không trở thành vườn không nhà trống, “để nhận thức về Tổ quốc, về dân tộc không dừng lại ở những tình cảm cao đẹp, mà còn được phân tích một cách sâu sắc về mặt lý luận”(9). Chính vì xuất phát từ tinh thần yêu nước mà Trần Đức Thảo đã rời Paris hoa lệ, khi ông đang ở đỉnh cao của giới triết học Pháp, trở về Tổ quốc tham gia kháng chiến, cần mẫn nghiên cứu, sáng tạo khoa học cho đến tận cuối đời. Hai là, một khía cạnh khác của tư tưởng nhân văn lớn của Hồ Chí Minh là Người luôn khẳng định khả năng sáng tạo văn hóa (văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần) của con người. Trong Mục đọc sách, ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.(9) Người còn ghi thêm: “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc: 1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường. 2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4. Xây dựng chính trị: dân quyền. 5. Xây dựng kinh tế”(10). Cần lưu ý rằng, tư tưởng trên được Hồ Chí Minh viết trong nhà tù của Quốc dân đảng Trung Quốc, khi Người đang chuẩn bị ra tù sẽ về giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Để thực hiện sự nghiệp ấy, vấn đề cốt tử là phải dựa vào sức sáng tạo của con người dân tộc. Nhưng, đó cũng chính là vấn đề quan trọng nhất khi nói đến con người. Tính tộc loại của con người, của loài người là ở điểm căn bản này. Loài người không chỉ dựa vào tự nhiên để tồn tại, mà chủ yếu là sáng tạo, chế biến lại tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong quá trình sáng tạo ra xã hội, con người cũng sáng tạo ra chính mình. Khi Hồ Chí Minh khẳng định phải dựa vào dân, phải tự lực cánh sinh để tiến hành mọi công tác cách mạng thì chính là dựa vào sức sáng tạo của con người. Trần Đức Thảo, trong suốt cuộc đời hoạt động khoa học của mình, hầu như chủ yếu tập trung nghiên cứu lịch sử nhân loại từ thời tiền sử, cổ đại, trung cổ đến thời đại hiện nay, nghiên cứu nguồn gốc loài người, nghiên cứu lịch sử dân tộc,… Tác phẩm Sự hình thành con người(11), và rất nhiều công trình nghiên cứu về con người, đặc biệt là các công trình: Về nội dung khái niệm con người (30-12-1982)(12), Tính chất khoa học cách mạng của quan điểm vô sản về con người, Vấn đề con người trong chủ nghĩa Mác – Lênin (2-1973), Về khái niệm con người (9-1976), Về nguồn gốc con người (1-7-1989)(13),… đều nhằm phân tích, chứng minh hoạt động sáng tạo của con người, của dân tộc trong tiến trình lịch sử. Đặc biệt, Trần Đức Thảo đã có cống hiến to lớn trong việc Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức(14). Đây là tác phẩm được nhà nước ta tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học - công nghệ (đợt I). Với tác phẩm này và nhiều tác phẩm khác sau đó, Trần Đức Thảo đã trình bày đầy thuyết phục sự biện chứng của năng lượng thần kinh sang năng lượng tâm thần, đặt cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu khả năng sáng tạo của con người ở thời xã hội khởi nguyên, được tiếp nối trong con người qua các thời kỳ lịch sử đến thời đại ngày nay.(11)ở những tác phẩm cuối đời, ông còn đi sâu, đi xa hơn về cội nguồn của sự sáng tạo ấy, bởi mối quan hệ giữa con người với vũ trụ được tập trung ở sự tiếp nhận và sản xuất năng lượng, trước hết là năng lượng thần kinh chuyển hóa thành năng lượng tâm thần. Nói cho cùng thì đây là cái quyết định con người có tính tộc loại, loài người khác với loài động vật, vì loài người có đời sống tâm thần, tinh thần. Không phát huy những giá trị tinh thần của con người thì không thể xây dựng xã hội mang tính người, từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần. Xã hội ở thời kỳ sau tiến bộ hơn xã hội ở thời kỳ trước chính là do đời sống tinh thần con người phát triển. Nhưng, những giá trị của mọi thời đại đều phải lấy Chân - Thiện - Mỹ làm cột trụ. Những quan hệ giá trị ấy là gốc cho mọi hoạt động sáng tạo của con người vốn được xây dựng từ thời xã hội khởi nguyên. Nói đến hoạt động sáng tạo của con người là nói đến lao động. Trong các tác phẩm nghiên cứu về con người và lịch sử, Trần Đức Thảo đã phân tích sự phát triển của các hình thái lao động mang tính loài của con người: Hình thái thứ nhất là lao động mang bản năng xã hội, khi con người mới thoát ra khỏi tập đoàn động vật tiền nhân, nghĩa là con người đang chuyển từ dùng dụng cụ (vốn lấy từ cái có sẵn của tự nhiên) sang lao động bằng công cụ đơn giản nhất. Hình thái thứ hai là lao động có ý thức hay còn gọi là lao động mang bản năng xã hội có ý thức. Đây là thời kỳ con người có sự trao đổi trong lao động sản xuất và chế tạo công cụ lao động có hệ thống để tác động vào tự nhiên và để hình thành tổ chức lao động. Hình thái thứ ba là lao động mang bản năng xã hội có ý thức, nhưng là lao động tự do, tức sức lao động trở thành hàng hóa trong xã hội tư bản. C.Mác gọi đó là hình thái lao động mang bản năng xã hội đã phát triển rất cao nhờ vào sự tiến bộ của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa so với các giai đoạn lịch sử trước đó. Vì vậy, muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển hình thái lao động mang bản năng xã hội này lên một trình độ mới, nghĩa là người lao động phải làm chủ những điều kiện lao động của mình. Thực hiện được điều đó thì con người mới tự do phát triển toàn diện. Rõ ràng là, với Trần Đức Thảo, những tư tưởng của Hồ Chí Minh về khả năng sáng tạo của con người đã được luận chứng bằng khoa học triết học đầy sức thuyết phục. Ba là, nói đến xây dựng xã hội mới, nói đến sự nghiệp cách mạng, nói đến tình thương con người, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh phải xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, với cộng đồng, giữa nhân dân và cán bộ, giữa mình với chính mình. Đặt câu hỏi cho cán bộ đến học trường Đảng: Học để làm gì? Hồ Chí Minh trả lời: “Học để làm việc, để làm người, để làm cán bộ”. Học chủ nghĩa Mác - Lênin để làm gì? Hồ Chí Minh trả lời: “Học để sống cho có lý có tình”. Trong tác phẩm Đường cách mệnh và nhiều tác phẩm khác về sau, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: Cán bộ phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân, nghĩa là nhà nước có trách nhiệm. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là phải xây dựng xã hội có quan hệ tốt đẹp để mỗi người ngày càng đẹp hơn: Mỗi việc làm tốt, mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một vườn hoa đẹp. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Hồ Chí Minh viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Trong tác phẩm quan trọng này, Người đã nhắc đến tất cả toàn dân, tất cả đồng bào: Từ người có công đối với cách mạng đến những nạn nhân của chiến tranh, những người phạm lỗi lầm, từ đồng bào miền núi đến đồng bào miền xuôi,… Trong các tác phẩm của mình, những nội dung trên đây đã được Trần Đức Thảo quan tâm sâu sắc, lý giải một cách khoa học, xuất phát từ chủ nghĩa duy vật biện chứng nhân bản. Trong luận cương thứ 6 về L.Phoiơbắc, C.Mác viết: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Luận điểm ấy của C.Mác đã được Trần Đức Thảo vận dụng sáng tạo dưới nhiều góc độ khác nhau và làm rõ hơn, sâu sắc hơn tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa người và người. Trần Đức Thảo khẳng định tư tưởng của C.Mác là xã hội có trước, cá nhân có sau. Chính hình ảnh xã hội có trong bản thân, ở vỏ não, đã được gửi lại với hình ảnh thân thể bản thân, ở trong vỏ não và nhờ thế, con người mới nhận ra bản thân mình trong hình ảnh của cộng đồng. “Người ta lúc đầu phải nhìn vào người khác, như nhìn vào một cái gương mới nhận thấy mình được. Chỉ có khi nào coi con người Pôn giống như mình thì con người Pie mới bắt đầu coi bản thân mình là một con người. Đồng thời, đối với Pie thì Pôn bằng xương bằng thịt, trong cái thân thể Pôn của anh ta, lại là hình thái biểu hiện của giống “người”(15). Đây là nguyên lý căn bản để xây dựng lý thuyết mà Hồ Chí Minh đã đề cập đến trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân(16). Trần Đức Thảo chỉ rõ, muốn chống chủ nghĩa cá nhân thì mỗi cán bộ, mỗi con người phải ý thức được quan hệ giá trị đầu tiên mà loài người đã hình thành trong thời khởi nguyên, tức là quan hệ đạo đức. Những quan hệ ấy chỉ mang ý nghĩa thực tế khi cả cộng đồng biết công nhận, biết phát huy cái quyền sở hữu cá nhân, tức sở hữu bản nhân của người lao động, trên cơ sở ấy mà mỗi con người ý thức được về giá trị của mình và pháp luật phải công nhận giá trị ấy. Phải kế thừa, bồi đắp, phát triển các lớp giá trị bền vững của con người nói chung để tạo ra sự phát triển bền vững cho xã hội. Tư tưởng ấy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Góp ý kiến vào Dự thảo Văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Trần Đức Thảo viết: “Dự thảo cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ… là lời đáp đanh thép đập tan âm mưu phá hoại của kẻ thù, đồng thời vạch rõ chủ trương đổi mới của Đảng, sửa chữa sai lầm trước, kiên quyết tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là xã hội trong ấy con người được giải phóng, nhân dân lao động được làm chủ đất nước, mọi người có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được bảo đảm. Chúng ta xây dựng một xã hội đạo đức, văn minh, vì lợi ích và phẩm giá con người. Phục vụ con người là mục tiêu chính của xã hội và có chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Như thế là dự thảo cương lĩnh đã bác bỏ quan niệm sai lệch của một số nhà lý luận trước đây cho rằng chỉ có quan hệ sản xuất, quan hệ giai cấp mới là căn bản. Còn quan hệ con người, vấn đề đạo đức, phẩm giá con người thì họ không chú ý, hoặc hầu như không chú ý tới. Mà chính quan hệ con người, quan hệ giá trị là một lớp không thể thiếu sót của toàn diện quan hệ xã hội, là bản chất của con người. Đây là cái lớp hình ảnh tâm thần xuất phát từ những tiếng gọi âm hiệu, chỉ hiệu của những liên hệ thần kinh ở bề sâu vỏ óc, xây dựng từ tuổi nhi đồng trong cộng đồng gia đình, hàng xóm, dân tộc, loài người”(17). Cũng từ luận điểm triết học trên đây, Trần Đức Thảo đã khẳng định có con người nói chung tồn tại trong từng cá thể cá nhân. Cái căn bản của con người nói chung ấy cũng được hình thành từ thời khởi nguyên của lịch sử và được duy trì trong quá trình phát triển của lịch sử, thông qua giáo dục gia đình, làng xóm và cộng đồng xã hội, dân tộc. Trên nền tảng đó, xã hội mới phát triển được và mỗi cá nhân mới tồn tại và phát triển được. Cũng chỉ có như thế, mới thực hiện được tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người. Trong thư gửi ông Phạm Văn Đồng ngày 15-7-1990, Trần Đức Thảo viết: “Trong biện chứng phức tạp của toàn diện lịch sử xã hội, cái hướng tiến lên là căn bản nhất. Nhưng đồng thời cũng có những cái cản trở, kìm hãm cái vận động tiến hóa, thậm chí là xoay ngược, đẩy lùi vào tình trạng thoái hóa. Cái xu hướng tiến bộ là cái tốt. Cái lùi xuống là cái xấu. Trong con người mà bản chất là toàn diện những quan hệ xã hội thì cái tốt với cái xấu cũng đấu tranh với nhau, thể hiện và thực hiện sự đấu tranh xã hội giữa cái xu hướng tiến lên với cái lùi xuống. Chính xuất phát từ quan điểm nhân sinh của Luận cương 6 về L.Phoiơbắc mà Bác Hồ đã căn dặn cán bộ: “Mỗi con người đều có thiện có ác ở trong lòng. Ta phải làm cho phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng”(18). Về mặt triết học, khi nói đến con người nói chung, Trần Đức Thảo đã nhắc lại luận điểm của V.I.Lênin: Cái chung chỉ tồn tại xuyên qua cái riêng và trong cái riêng. Cái riêng chỉ tồn tại trong sự liên hệ với những cái riêng khác để tiến tới cái chung. Như vậy thì cái tốt, cái bản chất của loài người, của cộng đồng dân tộc mới tồn tại và phát triển trong mỗi cá nhân. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta muốn xây dựng được tư tưởng, tình cảm, đạo đức thì phải kế thừa truyền thống tốt đẹp. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ II (11-2-1951), Người viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”(19). Hồ Chí Minh đã chuyển hóa khái niệm trung và hiếu của Nho giáo thành trung với nước, hiếu với dân. Khi Chính phủ Trung Hoa dân quốc ban hành quyết định từ nay về sau, xóa bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử (15-2-1927), Người đã viết: “Với việc xóa bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng Tử, Chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”(20). Trần Đức Thảo đã luận chứng về quy luật kế thừa nói chung, cả lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, lịch sử tư tưởng. Ông đã trình bày vấn đề này một cách sáng tạo: Một lôgíc hình thức - biện chứng là hình thức tổng quát của vận động thời gian, ở đây cái quá khứ, cái hiện tại, cái tương lai diễn ra trong mỗi lát của cái hiện tại sống động để cái tích cực của quá khứ được cái hiện tại tiếp nhận và cái tương lai tiếp tục phát triển. Đọc các tác phẩm của Trần Đức Thảo, chúng ta nhận thức sâu sắc tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh về sự kế thừa để phát triển con người, phát triển nòi giống, phát triển các quan hệ xã hội tốt đẹp. Như vậy, quan tâm đến con người phải rất cụ thể, đối với từng người, đối với từng lứa tuổi, đối với các biện pháp, chính sách phù hợp với các thế hệ, các giai đoạn lịch sử. Nhưng lại phải có tầm nhìn chung, bao quát, sâu xa, nghĩa là phải đảm bảo cho con người an sinh để tồn tại và phát triển.
|
Không có nhận xét nào: