>

Ca khúc nghệ thuật là gì?


Không ít người đã từng thắc mắc “ca khúc nghệ thuật” là gì? Vậy có loại ca khúc “phi nghệ thuật” không? Trong các loại hình được trao giải thưởng hàng năm của Hội Nhạc sĩ Việt Nam cũng có giải thưởng cho thể loại ca khúc nghệ thuật. Đâu là tiêu chuẩn xếp loại, đánh giá thể loại này? Đâu là điểm để phân biệt giữa ca khúc (theo nghĩa chúng ta thường dùng) và ca khúc nghệ thuật? 
1. Khái niệmHình thức âm nhạc là tên gọi của quá trình xây dựng tác phẩm âm nhạc. Hình thức được xác định bởi nội dung của từng tác phẩm, hình thức đó được hình thành trong sự thống nhất với nội dung và đặc trưng của nó là mối quan hệ tương hỗ giữa tất cả các thành tố âm thanh riêng biệt được phân bố, lặp lại theo thời gian.Mỗi tác phẩm âm nhạc luôn có một hình thức riêng và mang tính đặc thù, nhưng các quy luật tạo nên hình thức âm nhạc lại khá hạn chế, vì thế nhiều tác phẩm âm nhạc sẽ có đặc điểm chung về hình thức. Điều này cho phép ta có thể xác định được những dạng hình thức, xây dựng được những sơ đồ cấu trúc chung của các tác phẩm âm nhạc. Những sơ đồ đó khá phổ biến bởi tính uyển chuyển và hợp lý của chúng, và ít nhiều cũng phải phù hợp với quy luật thẩm mỹ chung của tính thống nhất trong từng cái riêng biệt.Hình thức tồn tại trong tất cả các loại hình nghệ thuật. Tuy nhiên, quy luật xây dựng hình thức của mỗi loại hình nghệ thuật lại khác nhau.Âm nhạc là nghệ thuật sử dụng âm thanh. Các nhân tố âm thanh được phát triển nối tiếp nhau, lần lượt đi vào nhận thức thông qua tai nghe, thông qua sự tiếp nhận của mỗi người. Và như vậy, hình thức âm nhạc là một quá trình phát triển, biến đổi liên tục theo thời gian với các mức độ khác nhau.2. Sự phân chia trong hình thức
2.1. Ngắt, lấy hơi và các dấu hiệu của nó

Hình thức âm nhạc là sự thống nhất, hoàn thiện, nhưng bên trong sự thống nhất ấy lại bao gồm những thành phần khác nhau, chúng được giới hạn bởi ý đồ nghệ thuật. Mối tương quan của các thành phần này cũng giống như sự phân chia trong văn học. Những bộ phận lớn của hình thức có thể so sánh với các chương của tác phẩm văn học, nhỏ hơn là các đoạn, các câu với độ dài ngắn khác nhau và thậm chí là từng từ.Thời điểm phân chia các thành phần trong hình thức nói trên được gọi là ngắt. Sự thể hiện của ngắt trong hình thức rất đa dạng, ta có thể nhận thấy một số dấu hiệu cơ bản của chúng như sau:     - Dấu lặng:            Vd. 1:                                                                            Tchaikovsky, Sym. N.6 – IAllegro non troppo






- Sau các nốt ngân dài:Vd. 2: Rachmaninov, “Melody” op. 3, N. 3Adagio sostenuto

- Sau các nhóm âm hình tiết tấu giống nhau:Vd. 3: Dargomusky, Opera “Russalka”, cảnh 1Allegro Moderato
Ngoài ba dấu hiệu cơ bản nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy những dấu hiệu khác của ngắt, chẳng hạn như khi có sự thay đổi về âm vực, sắc thái, âm lượng, v.v. Dấu ngắt được thể hiện rõ hơn khi ở bè chính của tác phẩm âm nhạc.2.2. Những nhân tố chính trong âm nhạc
Những nhân tố cơ bản, có ý nghĩa nhất trong sự hình thành hình thức âm nhạc có thể kể đến là: giai điệu, hoà âm và tiết tấu cùng mối tương hỗ giữa chúng. Trong chương trình học âm nhạc, các vấn đề trên được đề cập trong các môn học như “Lý thuyết âm nhạc cơ bản”, “Hoà âm”. Ở đây, chúng ta sẽ nhìn nhận chúng dưới góc độ của môn Hình thức âm nhạc.2.2.1. Giai điệu âm nhạc                           
Giai điệu là tư duy âm nhạc được biểu hiện bằng một bè, là yếu tố quan trọng nhất trong âm nhạc. Giai điệu được hình thành từ sự kết hợp những âm có cao độ giống và khác nhau, nối tiếp theo một tiết tấu nào đó. Giai điệu phải thể hiện được một nội dung, một hình tượng âm nhạc và nội dung, hình tượng ấy phải nhận được sự đồng cảm của người nghe.Giai điệu có những đặc điểm riêng của nó. Trước hết là hướng đi của giai điệu, ta thấy chúng luôn được thể hiện theo hình lượn sóng. Sự chuyển động này của giai điệu giúp cho mạch đập âm nhạc diễn ra liên tục, không đơn điệu, tạo điều kiện cho việc khắc họa hình tượng âm nhạc rõ nét hơn, đồng thời giúp cho sự tiếp nhận của người nghe được thuận lợi hơn.Cường độ của giai điệu phụ thuộc vào hướng đi của giai điệu. Khi giai điệu đi lên, cường độ thường lớn dần (crescendo), khi giai điệu đi xuống cường độ thường giảm dần (diminuendo).
Vd. 4:Tchaikovsky, Opera “The Queen of Spades” (Con đầm bích)Andante mosso

Sự phát triển của giai điệu sẽ dẫn đến cao trào âm nhạc, nốt cao nhất của cao trào được gọi là đỉnh điểm của cao trào. Đây là nơi thể hiện sự căng thẳng, đặc biệt nhất của tác phẩm, và như vậy mỗi một hình thức đều có một cao trào âm nhạc riêng.Trong sự luân chuyển của giai điệu, chúng ta còn gặp một dạng khác nữa của giai điệu, đó là “giai điệu ẩn”. Đặc điểm của “giai điệu ẩn” là sự nối tiếp các nốt trong tiến hành giai điệu xảy ra không được liên tục. Nếu giai điệu như đã xét ở trên là một nét liền, thì “giai điệu ẩn” có thể được xem là những nét đứt, rời, không liên tục:
Vd. 5Chopin, Mazurka, op. 24, N. 4        Vd. 6                                                                              Bach, Invention, D-durModerato
2.2.2. Chủ đề âm nhạc
Chủ đề âm nhạc là thành phần thể hiện tư tưởng chủ đạo, cốt lõi của một tác phẩm âm nhạc hoặc các phần của tác phẩm ấy. Chủ đề có thể biểu hiện theo các dạng khác nhau tuỳ thuộc vào từng hình thức và thể loại âm nhạc.Trong những trường hợp đơn giản, chủ đề có thể là một giai điệu hoặc một phần của giai điệu, nếu như giai điệu hoặc phần giai điệu ấy chứa đựng những nét đặc trưng và mang tính quy luật của tác phẩm.  Nét đặc trưng và tính quy luật này có thể được biểu hiện qua cách sử dụng quãng, âm hình tiết tấu. Và như vậy, chủ đề âm nhạc luôn súc tích, ngắn gọn và bền vững.Trong những trường hợp phức tạp hơn, chủ đề là sự kết hợp của tất cả các yếu tố như tiết tấu, hoà âm, âm sắc, cách cấu tạo... trong một cấu trúc hình thức nào đó.2.2.3. Hòa âm
Hòa âm là nghệ thuật kết hợp các âm thành những hợp âm và những hợp âm này nối tiếp nhau trong mối tương quan theo chiều dọc, chiều ngang. Hòa âm đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng tác phẩm âm nhạc. Nói đến hòa âm là nói đến công năng và màu sắc của chúng trong việc hình thành và phát triển hình thức âm nhạc.Trong lĩnh vực chức năng hợp âm, hòa âm biểu hiện ở mối tương quan giữa hợp âm chủ với các hợp âm khác trong một trung tâm điệu tính. Hợp âm chủ luôn ở trạng thái bình ổn và bền vững, còn các hợp âm khác trong điệu tính mang tính chất không ổn định. Sự không ổn định của các hợp âm này được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Những hợp âm không ổn định tạo nên sự căng thẳng và chúng sẽ được giải quyết về  hướng hợp âm chủ - ổn định (theo nguyên mẫu - kết T – S – D – T)Để phát triển hình thức ở mức độ lớn hơn (đôi khi cả với những hình thức nhỏ), nếu chỉ sử dụng một điệu tính cho cả một phần lớn trong hình thức thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của âm nhạc. Do đó, người ta phải sử dụng thủ pháp chuyển điệu để tạo nên những sự căng thẳng, tương phản, những màu sắc mới. Điều này đã tạo cơ sở cho việc so sánh giọng điệu. Khi đó, công năng hoà âm có thêm ý nghĩa mới đó là thể hiện mối quan hệ giữa các điệu tính. Điệu tính chính là điệu tính đóng vai trò chủ đạo theo nghĩa rộng nhất của từ này, đó là điệu tính bền vững hơn so với các điệu tính khác, đó là điệu tính dùng để bắt đầu và kết thúc một tác phẩm âm nhạc. Các điệu tính khác, không bền vững, là các điệu tính phụ thuộc. Các điệu tính phụ thuộc này tạo nên sự căng thẳng, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của hình thức. Từ đây xuất hiện mối tương quan mới về thứ tự giữa các hợp âm tương phản át và hạ át: T – D – S – T.Vd. 7                                                                           Scriabin, Prelude op. 11, N. 10


Công thức T – D – S – T này không đơn thuần là sự kết hợp giữa các hợp âm bậc V, bậc IV của một điệu tính, mà cần được hiểu một cách khái quát, đó là một bố cục, một trình tự sắp xếp các điệu tính nhằm tạo nên sự xung đột, tương phản và cuối cùng của sự tương phản, xung đột ấy sẽ được giải quyết bằng cách khôi phục lại điệu tính chính ban đầu. Đối với các đoạn riêng biệt, công thức này có thể xuất hiện trực tiếp vào các giọng điệu phụ của D và S. Trong những trường hợp phức tạp hơn, các thành phần của công thức trên lại được phân chia thành những thành tố mới nhỏ hơn cùng với mối quan hệ giữa những thành tố ấy, chẳng hạn T – D – T – S – T; T – D – với các giọng điệu khác – S – T; T – D – với các giọng điệu khác – T – S – T.Công thức này được quan tâm, sử dụng rất nhiều trong các hình thức khác nhau, bởi ý nghĩa quan trọng của bậc hạ át và giọng điệu của hạ át trong việc củng cố âm chủ.2.2.4. Tiết tấu
Vì âm nhạc là quá trình diễn ra theo thời gian, do đó tiết tấu đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ chức các âm thanh có cao độ. Theo nghĩa hẹp, tiết tấu là giới hạn về trường độ của các âm thanh nối tiếp nhau.Chúng ta có thể nhận thấy một loạt các âm nối tiếp nhau dưới đây:Vd. 8
Bởi vì các âm trên không có sự xác định rõ ràng trong mối tương quan về trường độ cho nên chúng không tạo nên ấn tượng của một ý tưởng nào mặc dù chúng được viết ở cùng một giọng điệu và ở các quãng khác nhau.Khi các âm trên được tổ chức theo một âm hình tiết tấu với tốc độ Moderato molto, khi đó chúng đã có một nội dung và tính chất trang trọng:Vd.9WagnerModerato molto                                                                                                               Nếu ta thay đổi âm hình tiết tấu trên và thể hiện bằng staccato thì các âm ấy lại mang một tính chất khác – tính vui đùa, bông lơn:Vd. 10
Molto staccato
           Như vậy, tiết tấu đã liên kết các âm, các hợp âm khác nhau gắn chúng thành một khối, tạo nên những nhóm với cá tính riêng. Từ sự kết hợp của những nhóm tiết tấu giống và khác nhau đã tạo nên các chủ đề, ý tưởng âm nhạc, và từ các chủ đề ấy với sự phát triển của chúng đã tạo nên tác phẩm âm nhạc hoàn chỉnh.Khái niệm tiết tấu có thể hiểu theo nghĩa rộng hơn, như là mối tương quan về thời gian giữa các phần khác nhau trong hình thức.

Bản chất của ca khúc là gì? Giọng người là một nhạc cụ tự nhiên với những khả năng độc đáo. Lời nói và âm nhạc đã kết hợp với nhau từ những lúc đầu sơ khai của con người, nên có lẽ ca khúc là một trong những hình thức âm nhạc xưa nhất. Định nghĩa đơn giản của ca khúc là “một tác phẩm âm nhạc được biểu diễn bởi giọng người, có hoặc không có nhạc đệm”, hoặc là “một bài thơ được dệt nhạc”. Âm nhạc làm nổi bật từ ngữ bằng những khả năng xúc cảm mà lời nói đơn thuần không chuyển tải được. 
Ca khúc  từ lúc nào?
Tuy có thể nói ca khúc gắn liền với lịch sử con người nhưng để nghiên cứu, cần phải có bản ký âm. Do đó, chúng ta coi như lịch sử ca khúc bắt đầu từ thời Trung đại. Mặc dù vào giữa Tk. 16 khi nhạc đa âm phát triển cao, trong đó, các bè giai điệu có khi phát triển độc lập (theo ngôn ngữ của âm nhạc đa âm), có khi cùng phát ra một lúc (ngôn ngữ hòa điệu), có khi được đệm bằng nhạc cụ, có khi không có phần đệm, nhưng vẫn chưa thể gọi là ca khúc bởi vì trong các thể loại này, ca từ vẫn chỉ là một yếu tố phụ thuộc, là “kẻ phục vụ” cho âm nhạc. Đến Tk.17, trong âm nhạc ca kịch có một sự cải tiến về thể loại ca khúc tương tự như ca khúc nghệ thuật (art song) sẽ được đề cập đến dưới đây. Sự khác nhau ngày càng rõ nét giữa thể loại recitative và aria đưa đến việc aria gần như thống trị trong các vở opera, oratorio và cantata. Aria là một nguồn gốc quan trọng cho các loại ca khúc hát đơn sau này trong Tk. 18.
Ca khúc nghệ thuật và Dân ca
Trong âm nhạc phương Tây, người ta thường phân biệt giữa dân ca, ca khúc phổ thông và ca khúc nghệ thuật. Dân ca là loại ca khúc thường được đệm bởi một hay vài nhạc cụ đơn giản, hoặc không nhạc đệm. Đặc điểm của loại ca khúc này là không rõ tác giả và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng cách truyền khẩu, truyền ngón, không có bản ký âm. Ca khúc nghệ thuật thì ngược lại, do những nghệ sĩ chuyên nghiệp biểu diễn, có bản ký âm và có ghi phần đệm piano hay nhóm nhạc, dàn nhạc. Ca khúc phổ thông nằm ở giữa dân ca và ca khúc nghệ thuật, xét về độ khó kỹ thuật và độ tinh tế.
Dân ca thường đi kèm những hoạt động của con người như nghi lễ tôn giáo, nhảy múa, lao động, giao duyên nam nữ hay nhằm mục đích kể chuyện. Giai điệu của chúng thường đơn giản. Ca từ thường gồm những chữ được lặp lại. Cả nhạc lẫn lời ca đều dễ hiểu. Theo truyền thống âm nhạc châu Âu, ca khúc nghệ thuật ít khi liên quan đến các hoạt động của con người. Lời ca và âm nhạc của chúng có khuynh hướng tinh tế, hoa mỹ, ở “đẳng cấp cao” hơn, đòi hỏi nhiều yếu tố lặp lại (về mặt thính giác) để có thể thưởng thức và hiểu được trọn vẹn. Cũng giống như âm nhạc cổ điển, ca khúc nghệ thuật cơ bản là một “hiện tượng thành thị”, một sản phẩm còn sót lại của giới qúy tộc, thượng lưu có nguồn gốc từ triều đình trung đại, các trường đại học, nhà thờ, thành phố.
Ca khúc nghệ thuật gồm những yếu tố nào?
Như đã nói trên, có thể định nghĩa ca khúc nghệ thuật “một bài thơ được dệt nhạc thường dùng cho những giọng ca có huấn luyện và có phần đệm piano đi kèm”. Một ca khúc như vậy thường dài khoảng 3 phút trở lên. Người Đức gọi ca khúc kinh điển như vậy là lied (hay lieder, số nhiều). Để nhấn mạnh hơn ý nghĩa ca khúc nghệ thuật, người Đức còn dùng thuật ngữ kunstlied. Với Mahler, ông dùng tên gọi gesänge thay cho lieder. Ở Pháp, người ta gọi ca khúc nghệ thuật là mélodie; người Ý dùng thuật ngữ romanza hay canzoni; còn người  Tây Ban Nha gọi là canciones hay canciones líricas.
Trong ca khúc nghệ thuật, có sự kết hợp hoàn hảo giữa 4 yếu tố: nhà thơ, nhà soạn nhạc, ca sĩ và người đệm đàn. Nhà soạn nhạc sử dụng những nguồn mạch nghệ thuật mình có để trang điểm cho ca từ của nhà thơ. Nhà soạn nhạc tạo nên một song tấu giữa ca sĩ và người đệm đàn. Ca khúc nghệ thuật đã vẽ nên bức tranh mà nhà thơ chỉ mới mường tượng ra. Và việc biểu diễn một ca khúc nghệ thuật như thổi hơi vào bức tranh ấy để tạo nên một thực thể sinh động, là kết qủa của sự phối hợp hoàn chỉnh cả 4 yếu tố đã nói. Ở các tiết mục biểu diễn của Tk. 17, 18, ca sĩ là người diễn đạt chính ca từ, mặc dù các phần đệm piano đã xuất hiện khá nhiều ở khoảng cuối giai đoạn này. Các nhà soạn nhạc Kinh điển (classical) như Haydn, Mozart, Beethoven đều đã viết những ca khúc được đánh giá như những tác phẩm lớn.
Đến khoảng nửa đầu Tk. 19, ca khúc nghệ thuật đã đạt đến đỉnh cao của kỹ thuật diễn tả, nghệ thuật thưởng thức và sự hoàn thiện. Nhưng ca khúc nghệ thuật-như chúng ta hiểu ngày nay-thực sự bắt đầu với Schubert, người đã làm cho ca khúc từ một tiểu phẩm trở thành một tác phẩm nghệ thuật lớn được thu nhỏ lại. Đó cũng chính là một trong những đặc điểm mới của âm nhạc thời kỳ Lãng mạn. Schubert là người viết ca khúc hàng đầu của thời kỳ Lãng mạn, ông đã biết cách khai thác kỹ thuật biến tấu một giai điệu được xây dựng theo khổ thơ. Dựa trên một khuôn khổ căn bản cho mỗikhổ thơ, ông đã thay đổi giọng hát và các các chi tiết phần đệm đàn một cách rất nghệ thuật và phù hợp với bản văn lời ca. Có thể nói âm nhạc và lời thơ đã có một hôn nhân hoàn hảo trong các ca khúc của Schubert. Sự hài hòa này đạt đến đỉnh cao trong các ca khúc của Hugo Wolf sau đó.
Các nhà soạn nhạc Tk. 20 tiếp tục khám phá mối liên quan giữa giọng hát và phần đệm, tiếp tục mở rộng âm vực và kỹ thuật diễn tả của ca sĩ, thậm chí đôi khi còn coi giọng hát như nhạc cụ (trong thể loại vocalise). Ở một số nền âm nhạc mới như Mỹ, ca khúc nghệ thuật còn được xây dựng trên nền tảng dân ca như trong các sáng tác của Aaron Copland, Charles Ives và ở Anh có Benjamin Britten. Mặc dù phần đệm đàn vẫn giữ vai trò đệm, phục vụ cho lời ca, như từ giữa Tk. 19, các tác giả đã có khuynhhướng cho phần nhạc cụ góp vai trò ngày càng quan trọng hơn, coi như một thành phần không thể tách rời khỏi ca khúc. Ngay từ Schumann, đã có thêm  những  phần mở đầu (prelude),đoạn gian tấu (interlude) và phần kết (postlude) đầy kỹ thuật và nghệ thuật làm phong phú thêm cho ca khúc.
Trong ca khúc nghệ thuật, nghệ sĩ piano trở thành một “đối tác bình đẳng” với ca sĩ, chứ không chỉ là người đệm đàn. Cho dù có một vài nhà soạn nhạc sử dụng dàn nhạc để “làm đối tác” với ca khúc của họ như trường hợp của Richard Strauss với tác phẩm “Four Last Songs” (Bốn bài ca cuối), nhưng vai trò của piano vẫn rất quan trọng cho thể loại này.
Ca khúc nghệ thuật phát triển mạnh từ thời kỳ Lãng mạn đến Tk. 20, vượt ra ngoài biên giới nước Đức. Tại Đức (và cả Áo) có những nhà soạn nhạc được coi là kế thừa Schubert trong lãnh vực ca khúc nghệ thuật có Robert Schumann, Johannes Brahms (1833-1897) nhưng ngoài ra còn nhiều tác giả khác có công không nhỏ trong việc phát triển nghệ thuật này như: Felix Mendelssohn (1809-1847), Richard Wagner (1813-1883), Franz Liszt (1811-1886), Hugo Wolf (1860-1903), Richard Strauss (1864-1949), Gustav Mahler, Arnold Schönberg (1874-1951), and Alban Berg (1885-1935).
Trong số các nhà soạn nhạc người Pháp đã đóng góp nhiều cho mélodies có: Hector Berlioz (1803-8169), Charles Gounod (1818-1893), Jules Massenet (1842-1912), Claude Debussy (1862-1918), Gabriel Fauré (1825-1924), Henri Duparc (1848-1933), Maurice Ravel (1875-1937), Reynaldo Hahn (1874-1947), và Francis Poulenc (1899-1963). Trường phái ca khúc nghệ thuật của Nga có những nhà soạn nhạc chính như: Mikhail Ivanovich Glinka  (1804-1857; vẫn được coi là cha đẻ của ca khúc nghệ thuật Nga), Modest Petrovich Mussorgsky (1839-1881), Alexander Porfiryevich Borodin (1833-1887), Nikolai Rimsky-Korsakov (1884-1908), Peter Ilyitch Tchaikovsky (1840-1893), và Sergei Vasilievich Rachmaninov (1873-1943). Ở Anh, Ralph Vaughn Williams (1872-1958) và Benjamin Britten (1913-1976) được coi là những nhân vật chính trong lãnh vực ca khúc nghệ thuật. Tại Mỹ, thể loại này còn sống và phát triển tốt. Không kể đến Gershwin, Copland, thì Charles Ives (1874-1954) đã để lại một di sản phong phú các ca khúc nghệ thuật. Bên cạnh đó, các nhà soạn nhạc đương đại như Ned Rorem, Jake Heggie cũng có những đóng góp quan trọng cho thể loại này.
Mỗi quốc gia châu Âu, Mỹ, Nhật, Hàn quốc, Úc, Nga, v.v… đều có một truyền thống phát triển cao về ca khúc nghệ thuật. Các thi sĩ đã gợi hứng cho những bậc thầy sáng tác viết ca khúc cho giọng hát và piano. Ở Việt Nam, trong lịch sử 50 năm của nền âm nhạc thính phòng-giao hưởng đã có nhiều ca khúc nghệ thuật ra đời. Tuy nhiên, một số không ít trong đó không phải là ca khúc nghệ thuật chính thống bởi phần đệm piano (hoặc dàn nhạc) không do chính tác giả tư duy và sáng tạo nên mà được phối lại bởi người khác.
Trong số các nhạc sĩ sáng tác của miền Nam trước năm 1975, nổi bật (và có thể là duy nhất) khuôn mặt của Cung Tiến trong thể loại ca khúc nghệ thuật. Ông viết không nhiều nhưng đa số là những ca khúc nghệ thuật rấtnhưng đa số là những ca khúc nghệ thuật rất phổ cập như: Hương xưa, Nguyệt cầm, Thu vàng, Hoài cảm. Sau năm 1975, trong âm nhạc thính phòng của miền Nam, ca khúc nghệ thuật vẫn được những nhà soạn nhạc chuyên về thể loại lớn như Nguyễn Văn Nam, Ca Lê Thuần, Hoàng Cương sáng tác. Trong đó, nổi bật nhất là tác giả Hoàng Cương với 40 ca khúc nghệ thuật, và một số đã được ông tuyển chọn để xuất bản trong Album-CD về ca khúc nghệ thuật Ca khúc Hoàng Cương  (2004). Có lẽ đây là CD đầu tiên ở Việt Nam ghi lại những ca khúc nghệ thuật của cùng một tác giả. Trong số các ca khúc nghệ thuật của ông có những ca khúc nổi tiếng, đã được trình diễn nhiều lần bởi nhiều nghệ sĩ tên tuổi như: Tháng giêng, Mùa xuân còn sót lại (thơ Lê Thị Kim), Hà Nội vào thu nhớ mẹ, Ballade Con đường sầu đông
Trong bài viết này chúng tôi không dùng từ “nhạc sĩ” để gọi các tác giả Việt Nam đuợc đề cập đến trên đây mà thay vào đó, dùng thuật ngữ “nhà soạn nhạc”. Bởi có lẽ không nơi nào trên thế giới mà việc trở thành nhạc sĩ lại dễ dàng như ở Việt Nam. Cứ hễ ai đó có một vài bài hát, thậm chí là những ca khúc “có vấn đề”, được phổ biến trong công chúng là “tự phong” hoặc được gọi là nhạc sĩ. Hơn thế nữa, từ “nhạc sĩ” còn được dùng thiếu chính xác: cứ nói tới “nhạc sĩ” là người ta hiểu “người đó có sáng tác ít nhất là một ca khúc nào đó”. Cũng trong ý nghĩa lệch lạc đó mà Hội Nhạc Sĩ ViệtNam đã và đang  có những chú trọng về lãnh vực sáng tác hơn là các lãnh vực khác của âm nhạc.
Trong phạm vi giới hạn của bài viết này, chúng tôi không muốn đi lạc đề để phân tích các phạm trù: musician (nhạc sĩ), song-writer (người viết ca khúc) và composer (nhà soạn nhạc). Trong tình hình “loạn nhạc sĩ” và “loạn ca khúc” trên thị trường âm nhạc Việt Nam hiện nay, thật là may mắn khi ngày nay ca khúc nghệ thuật vẫn còn được sáng tác, biểu diễn và thu âm. Việc biểu diễn ca khúc nghệ thuật đã có một quá khứ phổ biến trong các xã hội có văn hóa trước khi xuất hiện loại truyền thông tự động như radio, phim ảnh, MTV, internet, v.v…Những phương tiện hiện đại này dù sao đi nữa cũng làm mờ đi những cảm xúc, giác quan của chúng ta thay vì sự phấn khích khi được tham dự một buổi hòa nhạc live. Trình diễn ca khúc nghệ thuật trở thành một nghề ít được thực hiện trong cái xã hội hiện đại, cơ giới hóa, và mọi thứ đều được “đóng gói, bao bì trước”. Có lẽ vì vậy mà gần đây, việc sáng tác và biểu diễn ca khúc nghệ thuật đang có những dấu hiệu hồi sinh. Mong rằng các nhà soạn nhạc, nghệ sĩ biểu diễn sẽ giúp cho thính giả, những người đã từng quay lưng lại với thể loại này tìm lại được cảm giác thích thú và coi đây là một thể loại âm nhạc quan trọng cần được bảo trì. Chúng tôi nghĩ rằng vẻ đẹp tự nhiên của ca khúc nghệ thuật sẽ giúp thính giả nối kết lại với những kinh nghiệm đích thực về âm nhạc kinh điển đã và đang bị xa rời, quên lãng.
Nguyễn Bách ANVN8 (03/2010)

Chia sẻ ngay với bạn bè bài viết này
Facebook Pinterest StumbleUpon Delicious Reddit Digg Email Delicious

Không có nhận xét nào:

NHẬT KÝ WEBSITE

AM CÁC MINH - HỌC THUẬT và TÁC PHẨM

Loading...

THEO DÕI

| Copyright © 2013 BÁCH KHOA THƯ AM CÁC MINH