TS Mai Bá Ấn
Xưa nay thường có hai cách hiểu về trường ca, một cách hiểu theo trường khái niệm rộng để chỉ những tác phẩm thơ dài nói chung dù là tư sự hay trữ tình có dung lượng lớn; và một cách hiểu theo khái niệm hẹp dùng để chỉ những tác phẩm thơ có dung lượng lớn về cả nội dung và nghệ thuật nghiêng về hướng trữ tình hóa yếu tố tự sự với một cấu trúc nghệ thuật phức hợp. Và trên thực tế sáng tác, ta có thể nhận thấy từ cuối thập niên 80 của thế kỉ trước về sau này, trường ca đã giảm dần tính sử thi, hoành tráng và bắt đầu có chiều hướng nghiêng về nội dung đời tư, thế sự.
Trường ca là một tác phẩm được viết bằng thơ trên phương thức kết hợp nhuần nhuyễn hai yếu tố tự sự và trữ tình, có tính hoành tráng về cả phương diện nội dung, tư tưởng và cấu trúc nghệ thuật tác phẩm, được nhà thơ viết nên bằng một dung lượng cảm hứng mạnh mẽ, cảm xúc tuôn trào gắn liền với những chấn động lớn lao của lịch sử, của dân tộc và thời đại.
Như ta đã biết, về lý thuyết sử thi và trường ca còn có rất nhiều ý kiến khác nhau thậm chí là trái ngược nhau, nhưng nói gì thì nói, khi bàn đến trường ca, nhất định không thể tách nó ra khỏi chiếc nôi sử thi bởi tính hoành tráng, bởi hơi thở của lịch sử, của không khí thời đại phả trường ca; bởi cả tính hoành tráng về phương diện hình thức nhằm lột tả đầy đủ nhất cái “nội dung lớn”, “tư tưởng lớn” vốn là bản thể đặc trưng của trường ca. Vì vậy, một cách tổng thể nhất, ta có thể tìm thấy hai đặc điểm cơ bản của trường ca Việt Nam về nội dung và cấu trúc nghệ thuật, đó là: nội dung trường ca phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, dân tộc, thời đại bằng một cấu trúc nghệ thuật phức hợp thông qua các phương thức biểu hiện.
1- Trường ca phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, dân tộc và thời đại
Đó là những vấn đề liên quan đến số phận cả cộng đồng và dân tộc. Điểm lại tất cả các trường ca hiện đại Việt Nam, ta nhận thấy rằng, hầu như tất cả những vấn đề lớn, những mốc lịch sử quan trọng của dân tộc đều được trường ca thể hiện, tất nhiên mức độ thành công của mỗi trường ca có những mạnh yếu khác nhau và không phải sự kiện lịch sử lớn lao nào cũng được trường ca phản ánh một cách thành công, nhưng, duy có điều này, ta dễ dàng thống nhất là: các tác giả đã thể hiện những sự kiện lịch sử ấy bằng một cường độ cảm xúc lớn phù hợp với hơi thở của trường ca. Chính vì thế mà đã là trường ca phải có một độ dài nhất định. Giá trị nghệ thuật của mỗi tác giả, mỗi trường ca thì khác nhau, song cái độ bền của cảm xúc lớn khi phản ánh lịch sử là điều mà tác giả trường ca nào cũng có. Đã không ít những trường ca phản ánh về sự hình thành, quá trình mở nước của toàn dân tộc qua chuyển biến của mấy nghìn năm lịch sử (“Nàng chim lạc” của Trần Vũ Mai, “Người gồng gánh phương Đông” của Thu Bồn...); về sự ra đời và lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (“Cánh buồm mở hướng” của Duy Phi, “Ba mươi năm đời ta có Đảng” của Tố Hữu)... Cách mạng tháng Tám thành công, ngay từ những ngày đầu ấy, Xuân Diệu đã có hẳn hai trường ca “Ngọn quốc kỳ” và “Hội nghị non sông” với một độ dài mà trước đó “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” này dù cảm xúc thơ dào dạt đến say mê cũng chưa bao giờ có một tác phẩm dài hơi đến vậy. Và cũng có thể nhắc đến một trường ca khá thành công, đầy ắp không khí sử thi cách mạng lúc đó là “Cách mạng tháng Tám” của Trần Dần... Rồi trong không khí sục sôi của những ngày toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, không ít tác giả đã có những trường ca để đời như “Từ đêm mười chín” của Khương Hữu Dụng hoặc “Hà Nội tháng 12” của Ngô Văn Phú...
Vâng, không phải chỉ có tài năng của nhà thơ mà chính là không khí của thời đại, biến động lớn lao của lịch sử cách mạng đã làm nên độ hoành tráng đầy chất sử thi thi cách mạng của những trường ca này. Tất nhiên, cũng như sử thi, cơ sở của trường ca là hiện thực vĩ đại của lịch sử và thời đại, nhưng không phải nhất thiết thời đại lớn sẽ cho ra đời ngay tác phẩm lớn mà hầu hết, tất cả các sử thi và trường ca có giá trị nghệ thuật đều thường ra đời sau đó, thậm chỉ là rất lâu sau những sự kiện lịch sử ấy. Nghĩa là, nhà thơ cần có một độ lùi thời gian cần thiết để chiêm nghiệm lịch sử, để tích lũy cảm xúc, và khi lịch sử đã đi qua nhưng âm ba của những sự kiện lớn ấy vẫn “không thể nào quên”, trường ca lại xuất hiện rầm rộ hơn và để lại nhiều thành tựu nghệ thuật cao hơn. Trong lịch sử Việt Nam, chính âm ba của những chiến thắng chống ngoài xâm hào hùng trong truyền thống quá khứ của dân tộc, cùng hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và cuộc chiến chống bè lũ diệt chùng ở Campuchia đã trở thành một mạch nguồn cảm xúc vô tận, và trường ca hiện đại Việt Nam đã thật sự “bùng nổ” khi đề cập đến những cuộc kháng chiến vĩ đại này. Có thể nói, không gì khác hơn, chính trường ca là thể loại làm nên gương mặt riêng biệt của văn học hiện đại Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám 1945 đến nay. Trường ca phản ánh sự vận động của lịch sử, dân tộc và thời đại thông qua những biến động lớn lao. Cho đến bây giờ, cũng khó lòng kể ra hết những trường ca viết về hai cuộc kháng chiến thần thánh này. Không kể các trường ca của ba tác giả Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo mà luận án sẽ đề cập một cách cụ thể, tất cả các nhà thơ hiện đại Việt Nam trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến đều để lại rất nhiều những trường ca bất tử: “Những người trên cửa biển” (Văn Cao - 1956), “Nguyễn Văn Trỗi” (Lê Anh Xuân - 1967), “Người anh hùng Đồng Tháp” (Giang Nam - 1968), “Đường tới thành phố” (Hữu Thỉnh - 1978), “Trường ca Sư đoàn” (Nguyễn Đức Mậu - 1978), “Mặt trời trong lòng đất” (Trần Mạnh Hảo - 1979), “Con đường của những vì sao” (Nguyễn Trọng Tạo - 1981), “Bài ca người giữ đất” (Nguyễn Quang Tính - 1985), “Điệp khúc vô danh” (Anh Ngọc - 1993), “Gọi nhau qua vách núi” (Thi Hoàng - 1994)...
Trong những biến động lớn lao của lịch sử, thời đại, ắt phải có vai trò của cá nhân anh hùng lãnh đạo nhân dân làm nên những biến chuyển lớn lao của thời đại ấy. Bên cạnh những nhân vật cá nhân được các tác giả xây dựng bằng những trường ca riêng như hình tượng Hồ Chí Minh, Tôn Đức Thắng, Trần Phú, Nguyễn Văn Trỗi... điều đặc biệt nổi bật của trường ca hiện đại Việt Nam chính là sự xuất hiện những nhân vật số đông vốn rất bị chìm khuất trong dòng sử thi thế giới. Nhân vật quần chúng số đông, nhân dân vô danh đã làm nên một kiểu hình tượng văn học khá độc đáo trong hầu hết các trường ca hiện đại Việt Nam với quan niệm rất lịch sử và cũng rất thời đại rằng: chính họ, cái số đông quần chúng ấy, chứ không phải ai khác hơn, đã bằng mồ hôi, xương máu của cuộc đời mình làm nên lịch sử, sáng tạo nên lịch sử, trở thành nhân vật trung tâm của thời đại bão táp cách mạng vô sản và của mọi cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Họ, từ bao đời đã là những “nhân vật vô danh” thúc đẩy bước tiến của lịch sử, làm nên diện mạo của một thời đại mới: “Nhân dân/ Vẫn nguyên vẹn nhân dân/ Răng hạt lựu không cam đồng hóa/ Đắng chát cũng tìm cánh kiến, cây sim/ Mưu trí lấy từ câu chuyện làm ăn/ Thành vũ khí theo người đi sứ/ Sách bị đốt vẫn còn nguyên tiếng mẹ/ Đã bao lần đóng cọc giữ bờ ao/ Giặc đến/ Người ốm chống giường, chống phản đứng lên/ Trẻ con vơ tro, vơ cát đứng lên/ Người đang ăn thì cầm lấy đũa/ Người đi gặt thì lấy chuôi liềm/ Không quay mặt chẳng bao giờ tiếc máu” (Hữu Thỉnh, Tuyển tập trường ca, tr.292-293). Đặc biệt là nhân vật trung tâm: những người lính vô danh chiến đấu ngoan cường, hi sinh vô tư như một lẽ thường để giữ gìn non sông, đất nước: “Người lính nằm đợi thù/ Thời gian dồn thuốc nổ/ Đêm nhập cùng màu áo/ Áo nhập cùng đêm khuya/ Họ đã sống những đêm ròng ghê gớm/ Ném thủ pháo, chôn mìn, nổ súng/ Lửa lóe lên từ ngực áo mưa dầm/ Họ nằm bên xác người đã khuất/ Nước mắt lưng tròng nối với bước xung phong” (Nguyễn Đức Mậu, Tuyển tập trường ca, tr.378). Bây giờ, sau khi chiến tranh đã đi qua, nhận diện lại gương mặt thơ ca kháng chiến Việt Nam đã không ít ý kiến cho rằng, thơ kháng chiến chúng ta có một nét chung là lạc quan, anh hùng nhưng thiếu đi những khúc buồn đau, những lời thủ thỉ. Điều đó là một tất nhiên đối với nền thơ kháng chiến, tuy nhiên, đặc điểm này có thể nhận ra dễ dàng ở những bài thơ ngắn, còn trường ca, do yêu cầu của thể loại, thật sự đã có những đoạn thơ vươn đến cái trần trụi của đời thực, đặc biệt là phản ánh chiến tranh đúng như bản chất mà nó vốn có, nghĩa là, có hi sinh, mất mát, có tiếng khóc, nụ cười. Và đôi lúc, chính nước mắt họ mang theo đã làm nên sức mạnh: “Nước mắt lưng tròng nối với bước xung phong”. Có thể nói, nghiên cứu dưới góc nhìn này đối với trường ca Việt Nam có lẽ sẽ mang đến nhiều điều thú vị để ta nhận ra chân giá trị (cũng là một đặc điểm riêng) của trường ca kháng chiến so với thơ ca kháng chiến nói chung. Chúng tôi sẽ đề cập cụ thể ở luận án này khi đi vào đặc điểm trường ca của ba tác giả Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo.
Trường ca Việt Nam còn phản ánh những kinh nghiệm lịch sử, những được mất mà dân tộc đã trải qua. Có nền tảng ra đời từ những năm chiến tranh, song trường ca Việt Nam thật sự nở rộ vào những năm sau khi chiến tranh kết thúc. Những “nhà thơ mặc áo lính” chính là những người trong cuộc, song họ cũng thật sự bàng hoàng về những năm tháng lịch sử vĩ đại mà mình đã đi qua, những mất còn mà họ từng cảm nhận. Chính họ chứ không ai khác là những người mắc nợ văn chương với những năm tháng hào hùng ấy, mắc nợ với người đã thay họ vĩnh viễn nằm xuống và không còn trở lại sau cuộc chiến. Trường ca ra đời rầm rộ và trở thành thể loại chủ lực những thập niên 70 - 80 của thế kỉ XX như là một nhu cầu tổng kết, một nhu cầu lột tả cho hết những gì mình đã đi qua mà trong thời chiến chưa đủ thời gian suy ngẫm đến tận cùng, chưa đủ độ chín để tổng kết lịch sử. Trong chiến tranh, họ đau đớn chứng kiến cái chết của đồng đội, nhưng rồi cũng chỉ biết bới đất chôn vội bạn mình rồi tiếp tục cuốn theo những ngã đường đánh giặc; họ chưa cảm nhận hết cái đớn đau, mất mát, cái dằn xé kẻ nằm lại, người ra đi. Bây giờ, hòa bình rồi, nghĩ về những cái đã qua họ đau điếng cả lòng trước ánh mắt nhìn cuối cùng của đồng đội. Nỗi đau dai dẳng, âm ỉ, giờ nghĩ lại càng dội lên trong lòng họ như những đợt sóng gào. Khái quát lịch sử bằng những hình tượng thơ cụ thể, cảm xúc trào dâng chính là một thành công của trường ca so với thơ trữ tình. Trong “Gọi nhau qua vách núi”, Thi Hoàng đã khái quát tuổi tên những người lính như những kí hiệu toán học, vậy mà mỗi lần đọc đến đoạn này, lòng cứ nghe xốn xang để rồi tự đáy lòng dâng lên những cảm xúc lớn lao như chưa hề bắt gặp: “Có một đám tang chỉ có ba người/ Kể cả người đã chết/ Trong góc rừng miền Tây xa tít tắp/ Có một đám tang chỉ có ba người/ Nước trong lòng suối lặng lờ trôi/ Chiều lạnh và trong như ngàn vạn mảnh thủy tinh tan vỡ/ Những giọt nước mắt khô long lanh sắc cứa/ A và B khóc C trong một tổ ba người/ Bông hoa dại kia thương xót bời bời/ Hoa tựa làn môi cô gái quê mùa hát lời ru dân dã/ Cho kẻ thù nhìn thấy hoa mà sợ/ Cho mình nhìn thấy hoa mà buồn/ Ta bỗng như chưa được đặt tên/ Bông hoa dại trên nấm mồ chiến sĩ/ Ba người thôi kể cả người yên nghỉ/ Mình cho ta xin tính cả ta vào” (Tuyển tập trường ca, tr.553-554). Phải đi qua chặng đường chiến tranh bằng chính máu xương mình, họ mới đủ cảm xúc chân thành để đúc kết lịch sử bằng thơ. Họ lặng vào “bóng tối”, lặng vào “rễ cây”, lặng mình vào “khẩu súng”... hay nói đúng hơn, chính những năm dân tộc sống trong lòng đất để đánh Mỹ trên mặt đất và cả trên bầu trời đã khiến họ cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc đời ngay chính trong lòng đất thiếu vắng mặt trời. Đây, ta thử nghe “Lời bóng tối:/ Tôi là bóng tối muôn đời/ Chỉ mình tôi thấy hai người yêu nhau/ Trong tôi họ tự bền lâu/ Trở về cái thuở ban đầu phôi thai/ Cưu mang lại mặt đất này/ Từ trong địa đạo con người vươn lên/ Tôi là bóng tối màu đen/ Chỉ mình tôi biết chuyện riêng hai người” (Trần Mạnh Hảo, Tuyển tập trường ca, tr.427). Bóng tối trong lòng địa đạo Củ Chi, ngày hòa bình đã tự hào về những điều riêng mà chỉ một mình mình biết. Cái “chuyện riêng hai ngươi” ấy chính là những “cái được” nhỏ mà vô cùng lớn của trường ca. Chính những cảm xúc nhỏ nhặt này đã làm nên “độ bền sử thi” của trường ca Việt Nam. Nếu sáng tác ngay trong thời ấy, ngay giữa lòng địa đạo Củ Chi những năm tháng ấy, tôi cam đoan rằng Trần Mạnh Hảo không thể đủ cảm xúc, đặc biệt là bản lĩnh để nhân danh “bóng tối” tự “khai ra” những chuyện riêng thầm kín ấy.
Cụ thể mà khái quát, khái quát mà vô cùng cụ thể, đặc biệt, hình ảnh thơ khái quát mà trường liên tưởng rộng khắp, cụ thể có lẽ là “cái được” lớn nhất của trường ca Việt Nam . Chính điều này đã làm giảm bớt yếu tố sử thi trong trường ca hiện đại, khiến cho trường ca Việt Nam hoành tráng sử thi nhưng không xa lạ mà gần gũi, chân thực, lôi cuốn được người đọc theo chính dòng cảm xúc tuôn trào của tác giả.
2- Trường ca là một cấu trúc nghệ thuật phức hợp thông qua các phương thức biểu hiện
Mặc dù quy luật của nghệ thuật mà đặc biệt là nghệ thuật thi ca vốn có đặc thù riêng, nhưng có một tất yếu ta dễ thống nhất, đó là: sự thống nhất giữa nội dung và nghệ thuật trong một tác phẩm văn học là một chân lý bất biến. Chính điều này đã làm nền tảng cho thi pháp học hiện đại ra đời, để đến nay, mọi người dễ dàng thống nhất cái “hình thức mang tính nội dung” của thi pháp học. Tất nhiên, do bắt nguồn từ truyền thống của các sử thi và truyện thơ trong văn học dân gian và văn học trung đại, trường ca Việt Nam còn chịu nhiều dấu ấn dậm đặc của truyện thơ truyền thống, thậm chí đã không ít tác giả từng ghi vào tập “trường ca” của mình là “truyện thơ”, và cho đến hiện nay, thật ra ranh giới giữa hai thể loại này vẫn còn là một vấn đề nan giải. Điều chúng tôi muốn nói ở đây chính là do phát triển từ truyện thơ truyền thống mà cái dấu vết sử dụng “thơ kể chuyện” theo kiểu ngũ ngôn, lục bát, song thất lục bát của truyện thơ vẫn còn khá ổn định trong trường ca rất nhiều tác giả. Tất nhiên, những “trường ca” dạng này này có không nhiều những tác phẩm thật sự thành công về nghệ thuật, chưa kể, đa số chúng xét về đặc trưng thể loại chưa hẳn đã là trường ca mà chỉ mới vươn lên phạm vi một bài thơ dài hoặc diễn ca lịch sử. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì đặc trưng nổi trội mà các thể loại văn học khác không có được đó chính là tính phức hợp trong cấu trúc tác phẩm trường ca. Cái nhu cầu cần phải chuyển tải “nội dung, tư tưởng lớn” đã khiến các tác giả viết trường ca phải liên tục thay đổi cách thể hiện cho phù hợp với tình huống, với cảm xúc; và trong cuộc duyệt binh hùng vĩ của thể loại trường ca đã có không ít những tác giả đã cố gắng thay đổi cấu trúc nghệ thuật tác phẩm về mọi mặt để cách tân thể loại văn học đặc biệt này.
Tính phức hợp của cấu trúc nghệ thuật trường ca thể hiện rõ trong việc sử dụng đa dạng và sáng tạo các thể thơ, các thể loại văn học nghệ thuật. Rất tiếc là cho đến nay, vẫn chưa có một tuyển tập trường ca nào tuyển in những trường ca tiêu biểu nhất từ trước đến nay để làm cơ sở tư liệu cho việc nghiên cứu trường ca. Vì thế, chúng tôi đành dựa vào Tuyển tập 10 trường ca hiện đại tiêu biểu mà Nxb Quân đội nhân dân tuyển chọn để khảo sát nghiên cứu. Tất nhiên, đây chỉ là những trường ca xuất hiện sớm chưa thể khái quát hết chặng đượng phát triển của trường ca. Một cách tương đối, khi khảo sát tuyển tập này, chúng tôi nhận thấy rằng: có ba trường ca chỉ dùng độc nhất một thể thơ, đó là thể thơ 7 chữ và 8 chữ theo khổ 4 câu “kiểu Thơ Mới” và thể thơ 5 chữ. Chính vì thế, ba trường ca này là ba trường ca có cốt truyện hoặc theo sự kiện. Bảy trường ca còn lại đều dùng đa dạng các thể loại thơ (chủ yếu là thơ tự do), hầu hết không có cốt truyện. Nên khác với ba trường ca độc thể kể trên (được cấu trúc từng mục bằng số La Mã), bảy trường ca hợp thể còn lại được cấu trúc theo phần hoặc chương, mục có nhan đề cụ thể. Trong bảng thống kê dưới đây, các thể thơ truyền thống, chúng tôi chỉ tính khi nó tồn tại độc lập một đoạn từ 4 câu trở lên (riêng với Lục bát thì 2 câu). Thể 7 chữ, 8 chữ trở lên nhưng viết theo kiểu gieo vần trong một khổ 4 câu, ở đây, chúng tôi gọi là thơ gieo vần theo khổ 4 câu “kiểu Thơ Mới”. Ta có thể xem qua bảng thống kê sau:
TT
|
Tên Trường ca
|
Các thể thơ truyền thống (tính theo câu)
|
Thơ
| |||||
(tổng số câu thơ)
|
4 chữ
|
5 chữ
|
6 chữ
|
7 chữ
|
“Kiểu thơ Mới”
|
Lục bát
|
Tự do
| |
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
|
Bài thơ Hắc Hải (480 câu)
Bài ca chim chơ - rao (920 câu)
Theo chân Bác (480 câu)
Mặt đường khát vọng (1368câu)
Những người đi tới biển (1251 câu)
Đường tới thành phố (1584 câu)
Trường ca Sư đoàn (1528 câu)
Mặt trời trong lòng đất (2269 câu)
Nàng chim Lạc (472 câu)
Gọi nhau qua vách núi (1163 câu)
|
23
|
4
141
144
|
472
37
|
412
480
|
920
328
168
308
292
372
176
|
68
24
114
124
230
142
|
1040
1155
1162
971
1667
641
|
Trong sáu tác giả viết hợp thể, ta có thể nhìn tổng thể như sau ở phạm vi ba thể thơ là Lục bát, kiểu 4 câu theo khổ của “Thơ Mới” và thể thơ tự do:
TT
|
Tên tác giả
|
Lục bát
(số câu và tỉ lệ)
|
Khổ 4 câu kiểu “thơ
Mới” (số câu và tỉ lệ)
|
Tự do
(số câu và tỉ lệ)
|
1
2
3
4
5
6
7
|
Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Khoa Điềm
Thanh Thảo
Hữu Thỉnh
Nguyễn Đức Mậu
Trần Mạnh Hảo
Thi Hoàng
|
68/480 (14,17%)
24/1251 (1,92%)
114/1584 (7,19%)
124/1528 (8,11%)
230/2264 (10,13%)
142/1163 (12,20%)
|
412/480 (85,83%)
328/1368 (23,97%)
168/1251 (13,42%)
308/1584 (19,44%)
292/1528 (19,10%)
372/2264 (16,39%)
176/1163 (15,13%)
|
1040/1368 (76,02%)
1051/1251 (84,01%)
1162/1584 (73,35%)
971/1528 (63,54%)
1667/2264 (73,48%)
641/1163 (55,11%)
|
Như vậy, có thể nói, về phương diện thể thơ, đa số trường ca đều sử dụng một cách đa dạng và phong phú các thể thơ từ truyền thống đến hiện đại. Và ở đây ta cũng thấy được sự lên ngôi của thể thơ tự do. Tuy nhiên, sẽ thật phiến diện nếu chúng ta không mở rộng phạm vi khảo sát đối với những trường ca xuất hiện về sau. Ở đó, ta sẽ thấy, cũng chính những tác giả này đã tự làm mới thơ mình bằng cách mở rộng thể thơ, đẩy câu thơ tự do về gần với văn xuôi và đặc biệt là sự ra đời và từng bước chiếm lĩnh của thơ văn xuôi trong các trường ca (Phần “Văn xuôi một người lính” trong “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh...), trong đó, xuất hiện hiện tượng các “trường ca thơ văn xuôi” của Thanh Thảo. Ở một vài trường ca khác, ta còn nhận ra sự hiện diện của một kiểu thơ rất lạ mà ở luận án này tôi tạm gọi là “thơ tích hợp thể loại” theo kiểu “trộn lẫn thể loại” của văn học hậu hiện đại phương Tây. Một loại thơ nhưng không phải chỉ là thơ mà có cả văn xuôi, kịch, điện ảnh... Nhìn vào hình thức thể hiện trên mặt giấy thì không phải là thơ những cuối cùng lại là thơ trong tiếp nhận của người đọc. Đơn vị thơ không còn tính bằng câu theo kiểu thông thường mà tính bằng đoạn với những khoảng trắng, khoảng lặng ẩn tàng nhiều trường nghĩa liên tưởng mời gọi người đọc tham gia đồng sáng tạo theo kiểu của Lý thuyết tiếp nhận hiện đại.
Trường ca còn là một phức hợp nghệ thuật về ngôn ngữ, giọng điệu và cấu trúc tác phẩm. Đây cũng là một đặc trưng riêng của trường ca so với thơ trữ tình và truyện thơ, bởi nếu so với thơ trữ tình thì do trường ca mang đậm yếu tố tự sự , còn so với truyện thơ, trường ca lại nổi bật hơn ở sự lấn át của yếu tố trữ tình. Chính vì thế, một trường ca muốn lôi cuốn người đọc cần kết hợp nhiều phong cách ngôn ngữ, nhiều giọng điệu và đặc biệt phải có cấu trúc hợp lý để dù không có cốt truyện vững vàng, trường ca vẫn tồn tại như một chỉnh thể thống nhất mà không đơn điệu. Nghiên cứu các tác giả viết trường ca Việt Nam, chúng ta thấy rằng, mỗi tác giả, bên cạnh những đặc trưng ngôn ngữ thể loại, bên cạnh cái chất sử thi oai hùng của trường ca, mỗi người đều đã tạo cho mình một dấu ấn ngôn ngữ thơ rất riêng kết hợp thành một chỉnh thể thống nhất mà đa dạng trong một trường ca, khi cổ kính, trang nghiêm; khi hiện đại đến trần trụi... Chính điều này đã khiến cho giọng điệu thơ luôn thay đổi theo sự chi phối bối cảnh tự sự trong từng đoạn, từng chương, khi thì dữ dội, sử thi khi lại ân tình, thủ thỉ: “-Nắng mưa làm ảnh mờ đi/ Hình như anh chụp trước khi xuống tàu?/ Hình như ở xóm Vườn Trầu/ Có người chị, mối tình đầu của anh?/ Mình đang làm sử chiến tranh/ Có cần nghe một mối tình dở dang?” (Hữu Thỉnh, Tuyển tập trường ca, tr.271). Đang “làm sử chiến tranh” (sử thi) nhưng vẫn rất cần, rất cần nghe một “mối tình dang dở” tư riêng (đời thường) đến nhói buốt lòng qua “Câu chuyện trong hầm” người lính kể. Lòng đang rộn lên những giây phút nao lòng nhớ đến nôn nao dáng mẹ, dáng quê “Khói lên nhớ một dáng nhà/ Mây in tóc mẹ trời xa bay về/ Rừng vầu liền với rừng le/ Cánh chim vỡ mảnh trời quê bồn chồn” bỗng sáng bừng lên hoành tráng, hào hùng cái tư thế của những người chiến thắng: “Áo còn vương bụi đỏ Trường Sơn/ Sư đoàn vào thành phố/ Giữa chói ngợp bao màu sắc lạ/ Mũ lá sen xanh một khoảng rừng/ Vào thành phố: những người thắng trận/ Một mảng trời bén lửa sau lưng/ Khuôn mặt đường xa/ Chưa xóa dấu nhọc nhằn” (Nguyễn Đức Mậu, Tuyển tập trường ca, tr.352 và 382).
Trường ca luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn và linh hoạt giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình nên cấu trúc tác phẩm cũng khá đa dạng tùy theo mức độ tương quan giữa hai yếu tố. Trong trường ca Việt Nam, thông thường những tác phẩm nào yếu tố tự sự cao hơn thì thường có cấu trúc chặt chẽ hơn về trình tự chuyện, ngược lại, ở những trường ca mà yếu tố trữ tình lấn át tự sự thì cấu trúc chuyện có vẻ lỏng lẻo hơn nhưng lại được cái bền chắc, nhất quán bên trong tác phẩm nhờ vào cảm xúc chủ đạo của tác giả. Xét một cách tổng thể thì trường ca Việt Nam có hai dạng cấu trúc chủ yếu. Một dạng cấu trúc theo cốt truyện (theo tuyến sự kiện và nhân vật) mặc dù cả cốt truyện và nhân vật đều không hoàn chỉnh và một dạng cấu trúc theo mạch tư tưởng, cảm xúc. Nếu cụ thể hơn, ta sẽ nhận thấy, trong dạng cấu trúc theo cốt truyện có hai loại nhỏ: một loại có cốt truyện tương đối hoàn chỉnh hơn (gần truyện thơ hơn, đậm chất tự sự hơn, “nhân vật” rõ hơn) và một loại chỉ dựa vào tuyến sự kiện và “nhân vật” ẩn hiện (dấu ấn tự sự vẫn mạnh nhưng yếu tố trữ tình đã lấn át hẳn và làm nhòa đi cốt truyện, “nhân vật”). Quá trình vận động trong cấu trúc thể loại, chúng ta có thể nhận thấy rằng: đa số các trường ca xuất hiện trong thời kỳ chiến tranh có dạng cấu trúc theo cốt truyện (tự sự), cho nên ranh giới giữa dạng trường ca này với truyện thơ đôi lúc còn rất lập lờ (trừ “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm). Từ sau 1975 trở đi, dạng trường ca cấu trúc theo mạch tư tưởng, cảm xúc bắt đầu lấn át hẳn trường ca cấu trúc theo cốt truyện. Sự phức tạp, đa dạng trên bình diện cấu trúc tác phẩm từ thực tiễn sáng tác trường ca Việt Nam chính là ở điểm này. Hay nói chính xác hơn là liều lượng sử dụng yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình đã khiến cho trường ca Việt Nam có sự chuyển biến phức tạp trong cấu trúc tác phẩm ở từng giai đoạn, ở bản thân từng tác giả viết trường ca. Chỉ việc khảo sát 10 trường ca tiêu biểu trong tuyển tập của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, ta đã thấy sự đan xen rõ rệt giữa hai dạng cấu trúc này. Ở đây chúng tôi phân tích khái lược theo trình tự thời gian xuất hiện (cũng chính là thứ tự được chọn in trong tuyển tập) của 10 trường ca này.
“Bài thơ Hắc Hải” của Nguyễn Đình Thi cấu trúc trên cơ sở tuyến sự kiện của chính cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng. Sáng tác sớm ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp (1955-1958) với tiêu chí “văn hóa hóa kháng chiến” để đưa văn học về gần đời sống công nông binh, nhưng bản thân trường ca này lại không cấu trúc theo dạng có cốt truyện tương đối hoàn chỉnh mà cấu trúc theo tuyến sự kiện và “nhân vật”. Dựa vào những sự kiện của cuộc đời một nhân vật có thật nhưng tác giả đã khéo léo xử lý các chi tiết sự kiện lịch sử bằng chính cảm xúc của mình nên thơ đã phần nào níu giữ được dòng chảy trữ tình của một cuộc đời cách mạng. Tuy nhiên, công bằng mà đánh giá, do xuất hiện vào thời điểm lịch sử đó nên chất thơ của trường ca này không đủ mạnh để tạo nên sức sống lâu bền của một tác phẩm nghệ thuật. Nhiều đoạn thơ chứa đầy các sự kiện (mà lại toàn sự kiện lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới) nên hơi khô khan khó tìm được sự hài hòa để vươn đến độ lâu bền cho sức sống của thơ: “Bầy chó sói nhe nanh múa vuốt/ Đang tràn vào xâu xé đất Nga/ Đường phố treo đầy cờ Đế quốc/ Người bắt về chật những phòng tra// Xa xa náo động trên bờ biển/ Nơi đâu đang kèn sáo vang lừng/ Khách sạn Luân Đôn đèn choáng lộn/ Tiệc đang vui sau cửa rèm buông” (Tuyển tập trường ca,tr.9).
“Bài ca chim chơ rao” của Thu Bồn tuy xuất hiện sau (tháng 5/1963) nhưng lại được cấu trúc ở dạng cốt truyện rõ nét hơn. Và chính cái điều mà Nguyễn Đình Thi chưa làm được đã được Thu Bồn thể hiện một cách khá thành công: có cốt truyện nhưng cảm xúc cuả tác giả đã làm mờ nhòe sự kiện, kéo người đọc chảy theo dòng cảm xúc trào dâng của bản thân người viết trong một không khí huyền ảo “sử thi hiện đại” của vùng đất Tây Nguyên hùng vĩ.
“Theo chân Bác” của Tố Hữu được viết sau khi Bác Hồ qua đời (01/1970) có dạng cấu trúc giống với “Bài thơ Hắc Hải” của Nguyễn Đình Thi vì cùng viết về cuộc đời những con người có thật. Tuy nhiên, hai trường ca này ngược nhau hoàn toàn trong cách xử lý mối quan hệ giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình. Trong khi Nguyễn Đình Thi quá lạm dụng sự kiện thì Tố Hữu lại rất coi nhẹ sự kiện và thiên hẳn về cảm xúc. Cái được của “trường ca” này chính là ở thế mạnh cảm xúc, nhưng cũng chính vì thế mà nó chỉ dừng lại ở mức độ là một bài thơ dài chứ không đáp ứng đầy đủ dáng dấp một trường ca bởi “cái tôi thơ trữ tình” của tác giả đã lấn át mất yếu tố khách thể của hơi thở đời sống, hiện thực lớn (mà nhân vật chính đang đại diện) vốn rất cần cho một trường ca dù tác phẩm đang viết về một “nhân vật lớn”.
“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm (12/1971) và “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo (1976) chúng tôi đã đề cập cụ thể ở công trình nghiên cứu riêng. Điều đáng nói ở đây là: hai trường ca này có cấu trúc hoàn toàn khác với các trường ca trước đó. Yếu tố cốt truyện không còn tồn tại, bề mặt cấu trúc phân thành chương đoạn có nhan đề riêng nhưng dòng chảy của “tư tưởng lớn” nhất quán, “nhân vật” không hoàn chỉnh (không có hình tượng “nhân vật” mà chỉ tồn tại ở dạng số phận “nhân vật”), đặc biệt là đã thành công lớn trong nghệ thuật xây dựng “nhân vật số đông” đại diện của thời đại anh hùng. Có thể nói rằng: đến đây gương mặt của trường ca hiện đại Việt Nam đã được nhận dạng khá rõ so với sự lẫn lộn giữa trường ca với truyện thơ, diễn ca và thơ dài trước đó.
Các trường ca xuất hiện tiếp sau đó, trừ “Nàng chim Lạc” của Trần Vũ Mai (1982-1987) có cấu trúc lai ghép nhằm nối lại truyền thống dạng truyện thơ và thơ dài để hợp với không khí và đề tài cổ sử, còn lại “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh (1977-1978), “Trường ca Sư đoàn” cùa Nguyễn Đức Mậu (1977-1978), “Mặt trời trong lòng đất” của Trần Mạnh Hảo (1979) và “Gọi nhau qua vách núi” của Thi Hoàng (1987-1994) là những trường ca nối tiếp và phát triển lối cấu trúc theo mạch tư tưởng, cảm xúc bắt đầu từ Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo. Đây là giai đoạn mà trường ca Việt Nam đạt tới đỉnh cao vinh quang trong “sứ mạng thể loại” của mình. Tất cả các trường ca này đều được cấu trúc ở dạng phi cốt truyện, chỉ nối kết với nhau bằng các chương, đoạn (có nhan đề riêng) theo mạch tư tưởng, cảm xúc thống nhất; song cũng do sự đa dạng nội tại của nguồn mạch cảm xúc và tư tưởng ở từng tác giả mà mỗi trường ca có một nẻo đi riêng trong cách vận dụng đa dạng các thể loại văn học, các thủ pháp cấu trúc của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau để xây dựng cấu trúc tác phẩm. Ở đó có cả văn xuôi, có cả âm nhạc qua rất nhiều những điệp khúc (khúc ru) đa thanh, nhiều cung bậc của một bản giao hưởng cổ điển (cả Chương ba “Điệp khúc những cây cầu” của Hữu Thỉnh có đến bảy khúc ru đầy ắp âm thanh và rất nhiều những khúc ru, khúc ca tồn tại trong các trường ca này), có cả lối cấu trúc chớp nhoáng của thủ pháp điện ảnh: “Cơn lốc xoay tròn quanh điểm lửa/ Xơ xác cỏ tranh muốn bứt khỏi triền đồi/ Chiếc lá bứt khỏi cây/ Cơn lốc từ chiếc máy bay cánh quạt/ Thuốc độc rơi mờ mặt đất/ Người lính đeo mặt nạ khí tài/ Súng cầm tay/ Khăn mặt ướt vắt vai/ Ngực căng hơi thở gấp” (Nguyễn Đức Mậu, Tuyển tập trường ca, tr.373). Ở đó còn có những “nhân vật” cụ thể mà vô hình tự độc thoại như một dạng của lối cấu trúc kịch trong nghệ thuật sân khấu (Có cả lối kịch độc thoại như: “Lời bóng tối”, “Lời rễ cây”, “Lời khẩu súng” và cả kịch đối thoại giữa “nhân vật B52” và “nhân vật Ngọn cỏ” ở “Mặt trời trong lòng đất” của Trần Mạnh Hảo)...
Có thể nói, kể từ “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, mặc dù là trường ca song chưa bao giờ cái tôi cá nhân của thơ trữ tình lại chiếm một vị trí quan trọng như thế trong cấu trúc tác phẩm. Nhìn ngay vào những câu, đoạn mở đầu của các trường ca, ta sẽ dễ dàng nhận thấy: “Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ/ Vô tư quá để bây giờ xao xuyến” (Nguyễn Khoa Điềm), “Khi con thưa với mẹ/ mưa bay mờ đồng ta/ Ngày mai con đi...”(Thanh Thảo), “Bài hát đầu tiên tôi hát ở Sư đoàn/ Mây trôi trắng khoảng trời biên giới” (Nguyễn Đức Mậu),“Vâng, thật tình tôi muốn được in ra/ Tôi là kẻ bị những ý tưởng đuổi săn chạy vào con đường độc đạo/ Những con chữ đã in đó là nốt chân của tôi chạy qua trang báo/ Mong tìm về nơi yên ổn cũng không xong” (Thi Hoàng),... Cái tôi nối kết, ẩn ẩn, hiện hiện trong tác phẩm như một “nhân vật”, và chính nó, chứ không phải là ai khác, đã làm biến đổi rất lớn cấu trúc thể loại của trường ca.
Có thể nói với hai đặc điểm cơ bản về nội dung biểu hiện và phương tiện biểu hiện này đã làm nên đặc trưng của thể loại trường ca hiện đại Việt Nam .
· Tất cả trích dẫn trong bài từ cuốn: Tuyển tập Trường ca, Nhà xuất bản Quân đội (1997), Hà Nội.









Không có nhận xét nào: