Tứ thư
Chúng bao gồm:
Tứ Thư và Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách
chủ yếu của Nho giáo. Các sách này còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Sự học của Nho giáo có nhiều lý tưởng
cao siêu, nhưng có thể nói một cách vắn tắt là: sự học chú trọng ở luân thường đạo
lý, chủ trương biến hóa tùy thời, sự vụ thực tế nên không bàn đến những cái viển vông
ngoài sinh hoạt của con người nơi trần thế.
1.
Đại Học
Đại học là một trong những kinh điển trọng yếu của
nho gia. Xưa, người đến tuổi 15 thì vào học bậc đại học và được học sách này.
Hai chữ "đại học" được nhà nho giải thích là "đại nhân chi học",
hiểu theo 2 nghĩa, là cái học của bậc đại nhân, và là cái học để trở thành bậc
đại nhân. Cách giải thích ấy phần nào hé lộ về nội dung, mục đích của bộ sách.
Đại học vốn chỉ là một thiên trong sách Lễ
kí (Kinh Lễ sau này), được Tăng Sâm - một học trò
hạng trung của Khổng Tử chế hóa thành. Tuy nhiên, nó chỉ thuộc bộ Tứ thư vào thời Tống, với sự xuất hiện cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hi. Trên đại quan, sách Đại học gồm 2 phần:
·
Phần
đầu có một thiên gọi là Kinh,
chép lại các lời nói của Khổng Tử.
·
Phần
sau là giảng giải của Tăng Tử, gọi là Truyện,
gồm 9 thiên.
Đại học đưa ra 3 cương lĩnh (gọi là tam cương lĩnh), bao gồm:
-
Minh
minh đức (làm sáng cái đức sáng)
-
Tân dân (làm mới cho dân. Có khi viết là thân dân, nghĩa là gần gũi với
dân)
-
Chỉ
ư chí thiện (dừng ở nơi chí thiện).
Ba cương lĩnh này được cụ thể hóa bằng 8
điều mục nhỏ (gọi là bát điều
mục), bao gồm:
+
cách vật (tiếp cận và nhận thức sự vật)
+
trí tri (đạt tri thức về sự vật)
+
thành ý (làm cho ý của mình thành thực)
+
chính tâm (làm cho tâm của mình được trung chính)
+
tu thân (tu sửa thân mình)
+
tề gia (xếp đặt mọi việc cho gia đình hài hòa)
+
trị quốc (khiến cho nước được an trị)
+
bình thiên hạ (khiến cho thiên hạ được yên bình).
Vậy thì:
- Minh
minh đức ứng với cách vật, trí tri,
thành ý, chính tâm và tu thân trong bát điều mục.
- Tân dân ứng với tề gia và trị quốc.
- Chỉ ư chí thiện tương ứng với bình thiên hạ.
Bắt đầu từ chỗ
làm sáng cái đức vốn sáng, vì có gốc gác tiên thiên của bản thân mình, lấy đó
làm khởi điểm cho sự tu đức. Kết quả cuối cùng của quá trình này là làm cho tòa
bộ thiên hạ được an trị, đó là cứu cánh của nó. Sự tu đức, được coi là phổ dụng
cho tất cả mọi người.Đó là cái gọi là: "Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất
thị giai dĩ tu thân vi bản" (Nghĩa là: "từ vua cho đến thường dân,
ai ai cũng đều lấy sự sửa mình làm gốc"). Sách Đại
học dạy người ta cách tu thân
và cai trị thiên hạ theo chủ trương "vi đức dĩ chính" của nho gia.
2.
Trung Dung
Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra cũng trên cơ sở một thiên trong
Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học
tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời
của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở
mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Sách Trung Dung chia làm hai phần:
·
Phần 1: từ chương 1 đến chương 20, là phần chính, gồm những lời của
Khổng Tử dạy các học trò về đạo lý trung dung, phải làm sao cho tâm được: tồn,
dưỡng, tĩnh, sát; mức ở được gồm đủ: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín cho hòa với muôn
vật, hợp với lòng Trời để thành người tài giỏi.
·
Phần 2: từ chương 21 đến chương 33, là phần phụ, gồm những ý kiến
của Tử Tư giảng giải thêm cho rõ ràng ý nghĩa và giá trị của hai chữ trung
dung.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung
trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với
sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
3.
Luận Ngữ
Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những
lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm
20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có liên hệ với
nhau.
Đọc sách này, người ta hiểu được phẩm chất
tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trò, khéo đem lời
giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hoàn cảnh của mỗi người. Như có khi
cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Trình
Y Xuyên, một nhà
Nho đời Tống nói:
Có người đọc xong Luận
Ngữ mà không thấy gì cả, có người đọc xong lại thấy thích thú một vài câu, có
người đọc xong thì rất thích thú đến độ múa tay múa chân mà không hay biết.
Bởi vậy, khi đọc Luận Ngữ, phải đọc chậm
rãi, suy nghĩ tường tận, càng suy nghĩ càng phát hiện được nhiều điều hay.
Trình Y Xuyên lại nói:
Ai đọc xong Luận Ngữ mà
vẫn còn những tính nết như trước khi chưa đọc thì người ấy chưa hiểu được sách
Luận Ngữ vậy.
Tóm lại sách Luận Ngữ dạy đạo quân tử một
cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của Khổng Tử để làm mẫu mực cho người
đời sau noi theo.
4.
Mạnh Tử
Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn đệ của ông như: Nhạc Chính Khắc,
Công Tôn Sửu, Vạn Chương v.v. ghi chép lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với
các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh
Tử về các học thuyết khác như: học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu.
Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia làm 2 phần: Tâm học và Chính
trị học.
·
Tâm
học: Từ thời Mạnh tử, ông cảm nhận được một đấng vô hình nên hay nhắc đến Trời.
Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú cho. Sự giáo dục phải
lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó không mờ tối, trau dồi nó để phát triển
thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của Trời ban cho người. Như vậy,
tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể. Học là để giữ cái Tâm, nuôi cái
Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
Nhân và nghĩa vốn có sẵn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào vòng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất với Trời.
·
Phần
Tâm học của Mạnh Tử rất sâu xa, khiến học giả dù ở địa vị hay cảnh ngộ nào cũng
giữ được phẩm giá tôn quí.
·
Chính
trị học: Mạnh Tử chủ trương: Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất
táo bạo trong thời quân chủ chuyên chế đang thịnh hành.
Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành.
Mạnh Tử nhìn nhận chế độ quân chủ, nhưng vua không có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan cũng không được vượt ra ngoài pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành.
·
Chủ
trương về chính trị của Mạnh Tử thật vô cùng mới mẻ và táo bạo, nhưng rất hợp
lý, làm cho những người chủ trương quân chủ thời đó không thể nào bắt bẻ được.
Có thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau
này.
Tóm lại, bộ sách Mạnh Tử rất có giá trị với
Nho giáo. Phần Tâm học trong sách là đỉnh cao nhất trong học thuyết Nho giáo.










Không có nhận xét nào: