THIÊN 36 : THÍCH NGƯỢC
Chứng Ngược phát
từ kinh Túc Thái dương, khiến người yêu đau, đầu nặng, rét từ phía lưng phát
sinh, trước hàn sau nhiệt, hơi nóùng bừng bừng ngùn ngụt... Lúc nhiệt, mồ hôi
toát ra mà bệnh vẫn không đứt. Thích ở huyệt Uûy trung cho ra huyết [1].
Bệnh phát từ mạch
Túc Thiếu dương, khiến người thân thể mỏi mệt, không hàn lắm, không nhiệt lắm,
ghét thấy người, thấy người phấp phỏng sợ hãi... Nhiệt nhiều, hãn ra nhiều...
Nên thích ở huyệt Túc Thiếu dương. Hiệp khê [2].
Bệnh ngược phát
từ Túc Dương minh, khiến người trước rờn rợn ghê rét... Dần dần lâu mới nhiệt,
đến lúc nhiệt giảm, hãn ra, thấy nhật nguyệt quanh và hỏa khí, đều lấy làm
thích... Thích huyệt Túc Dương minh, xương dương [3].
Bệnh ngược phát
tứ Tức Thái âm, khiến người không vui, thường thở dài, không thiết ăn, hàn
nhiệt nhiều một khi hãn ra thời bệnh lại phát, phát thời ọe, ọe khỏi thời bệnh
lui. Nên thích ngay. Công tôn [4].
Bệnh ngược phát
từ Túc Thiếu âm khiến người nóùân thổ nhiều, nhiệt nhiều hàn ít, chỉ muốn đóng
kín cửa lại để nằm... Bệnh này khó khỏi [5].
Bệnh ngược phát
từ Túc quyết âm, khiến người yếu đau, thiếu phúc mãn, tiểu tiện không lợi, như
long bế, mà không thật long bế, nhưnng lại muốn tiểu luôn, ý chí như sợ sệt,
khi bất túc, trong bụng thường áy náy khó chịu... Nên thích túc Quyết âm. Thái
xung [6].
Bệnh ngược phát
tù Phế khiến người Tâm hàn, hàn rồi lại nhiệt, nhiệt đỡ lại hay sợ, như trông
thấy vật gì... Thích Thủ Thái âm, Dương minh, liệt khuyết, Hợp cốc [7].
Bệnh ngược phát
từ Tâm, khiến người trong Tâm rất phiền, chỉ muốn uống nước mát, lại hàn nhiều
nhiệt ít... Nên thích Thủ Thiếu âm. Thần môn [8] .
Bệnh ngược phát
từ Can, khiến người sắc mặt tái xanh, hay thở dài, như người sắp chết... Nên
thích Túc Quyết âm, cho ra máu. Trung phong [9].
Bệnh ngược phát
từ Tỳ, khiến người hàn, trong bụng đầy, nhiệt thời ruột sôi, sôi rồi hãn ra.
Nên thích Túc Thái âm. Thương khâu [10].
Bệnh ngược phát
từ Thận, khiến người nhờn nhờn ghét, yêu tích đau, phải uốn éo luôn, đại tiện
khó, mắt trông trơ tráo mà không tỏ, tay chân lạnh... Thích Túc Thái dương, Uûy
Trung, Thiếu âm, Đại trung [11].
Bệnh ngược phát
từ vị, khiến người hay đói mà không ăn được, ăn vào lại đầy nghẽn, bụng to,
thích tức dương minh, Giải khê, Túc tam lý, hoành mạch ở Túc Thái âm cho ra
huyết [12].
Bệnh ngược phát
rồi mình mới nóùng, thích động mạch ở trên xương khoai, lay châm cho rộng, chờ
cho ra huyết, sẽ mát ngay [13].
Bệnh ngược đương
lúc muốn hàn, thích Thủ Dương minh, Thiếu dương thái uyên, Thái âm, Túc Dương
minh Thái âm [14].
Ngược mạch mãn và
đại cấp dùng “trung châm” thích Bối du, và bên năm Khư du, mỗi huyệt một châm,
theo đúng người béo gầy, chờ cho ra huyết [15].
Ngược mạch tiểu
thực và cấp, “Cứu” huyệt Thiếu âm ở ống chân, thích huyệt Chỉ tỉnh [16].
Ngược mạch mãn,
đại và cấp, thích Bối du, năm khư du, mỗi nơi một lần, chỉ để vừa hành huyết
thời thôi [17].
Ngược mạch hoãn
và quá hư, nên dùng thuốc uống, không nên dùng châm [18].
Phàm trị bệnh
ngược, trước khi phát bệnh bằng một bữa ăn (ước nửa giờ đồng hồ) mới có thể
chữa. Nếu quá lúc đó, sẽ lỡ, không nên chữa [19].
Các bệnh ngược,
nếu không thấy biểu hiện ra ở mạch, thích mười đầu ngón tay cho ra huyết, huyết
ra tất khỏi. Lại xem ở mình có những nóùát đỏ và nhỏ như hạt đậu, cũng thích cả
đi [20].
Mười hai chứng
ngược, lúc phát ra không giống nhau và cùng một lúc, phải nên xem xét bệnh hình,
để biết thuộc về Tàng nào... [21]
Biết lúc bệnh
phát, trước một lát bằng bữa ăn cơm, sẽ thích [22]. Một lần thích thời tà khí
suy, hai lần thích thời bệnh bớt, ba lần thích thời khỏi. Nếu chưa khỏi, thích
hai mạch ở dưới lưỡi cho ra huyết, nếu vẫn không khỏi, thích huyệt Uûy trung
cho ra huyết, lại thích luôn cả Khư du và Bối du, tất khỏi. Hai mạch dưới lưỡi,
tức là Liêm tuyền [23].
Thích bệnh ngược,
phải thích vào khoảng giữa nơi bệnh sẽ phát[24]. Nếu trước nhức đầu và chân đi
khó khăn nên thích trên đầu với hai bên Huyền lô trán, khoảng giữa hai lông mày
trước, cho ra huyết [25]. Nếu cổ và lưng đau trước, thích trước ở các huyệt đó
[26]. Nếu yêu tích đau trước, thích huyệt Uûy trung cho ra huyết [27]. Nếu tay
và cánh tay đau trước, trước thích ở huyệt Thủ Thiếu âm, Dương minh [28]. Nếu
ống chân đau nhức trước, thích mười ngón chân thuộc Túc Dương minh trước, cho
ra huyết [29].
Về chứng phong
ngược, khi bệnh phát thời hãn ra và ố phong. Thích bỏ huyết ở Tam dương kinh và
Bối du [30].
Oáng chân đau
quá, bóp mãi không khỏi, gọi là “Phụ tủy bệnh” dùng “Xàm châm” thích xâu vào
xương huyết ra, khỏi ngay [31].
Thân thể hơi đau,
thích Chí âm [32].
Các Tỉnh huyệt
thuộc âm kinh, chưa ra huyết, nên cách ngày thích một lần [33].
Ngược không khát,
cách ngày bệnh phát, thích Túc Thái dương, khát mà cách ngày bệnh phát, thích
Túc Thiếu dương [34].
Oân ngược, hãn
không ra được, nên thích năm mươi chín huyệt [35].
THIÊN 37 : KHÍ QUYẾT LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Năm Tàng, sáu
Phủ, hàn nhiệt cùng chuyển di như thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thận di hàn tới
Tỳ, gây nên chứng ung, thũng, thiểu khí [2]. Tỳ di hàn tới Can, gây nên chứng
ung thũng, co gân. Can di hàn tới Tâm, gây nên chứng cuồng và Cách trung [3].
Tâm di hàn tới Phế, gây nên chứng Phế tiêu, Phế tiêu là một chứng uống vào một
phần, đi tiểu ra hai phần không thể chữa được [4]. Phế di hàn tới Thận, gây nên
chứng Dũng thủy, “Dũng thủy” là một chứng án vào phúc bộ không kiên, thủy khí
ký túc ở Đại trường, đi nhanh thời trong bụng kêu óc ách, như túi chứa nước.
Hoàn toàn là thủy bệnh [5].
Tỳ di nhiệt tơí
Can, thời gây nên chứng kinh, và Nục [6]. Can di nhiệt tới Tâm thời chết [7].
Tâm di nhiệt tới Phế, gây nên chứng Cách tiêu [8]. Phế di nhiệt tới Thận, gây
nên chứng Nhu chí [9]. Thận di nhiệt tới Tỳ, gây nên hư và trường tiết, khó
chữa [10].
Bào di nhiệt tới
Bàng quang, gây nên chứng “long” và tiểu ra huyết [11]. Bàng quang di nhiệt tới
Tiểu trường [12].
Cách trường không
thấm xuống được, gây nên chứng lở nát trong miệng [13]. Tiểu trường di nhiệt
tới Đại trường, gây nên chứng phục giả, chứng Trĩ [14]. Đại trường di nhiệt tới
Vị ăn nhiều mà gầy mòn, gọi là chứng Thực diệc [15]. Vị di nhiệt tới đởm cũng
gọi là chứng thực diệc [16]. Đởm di nhiệt tới Não, thời đau nhức ở trán và Ty
uyên, rồi lại thêm cả chứng mục và mờ mắt. Đó, đều gây nên bởi khí quyết (1)
[17].
THIÊN 38 : KHÁI LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh ở Phế, mà
thành chứng ho, là vì sao? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Năm Tàng sáu Phủ,
đều gây nên chứng “khái” không riêng gì một Phế [].
Xin cho biết
chứng trạng... [3]
Bì mao, gốc sinh
ra tự Phế. Bào mao mắc phải tà khí trước, tà khí liền theo với chỗ gốc sinh ra
khái [4].
Các thức uống ăn
có tính lạnh lọt vào Vị theo Phế mạch dẫn lên Phế, thời Phế hàn, Phế hàn thời
trong ngoài đều có tà, tà ký túc luôn ở đó, liên gây nên chứng Phế khái [5].
Năm Tàng đều theo
về từng mùa, để mắc bệnh, nếu không phải mùa, sẽ truyền lẫn cho nhau [6].
Người với trời
đất, “tương tham”, cho nên năm Tàng đều theo từng mùa để chủ trị [7].
Cảm vì hàn thời
mắc bệnh, nhẹ thời gây nên chứng khái, nặng thời gây nên chứng tiết, chứng
thống (đau) [8].
Gặp mùa Thu, thời
Phế bị tà trước, gặp mùa Xuân, thời Can bị tà trước, gặp mùa Hạ thời Tâm bị tà
trước, gặp chí âm Thời Tỳ bị tà trước, gặp mùa Đông thời Thận bị tà trước [9].
Hoàng Đế hỏi:
Chứng trạng khác
nhau thế nào? [14]
Kỳ Bá thưa rằng:
Chứng Trạng của
Phế khái, khái mà thở suyễn thành tiếng, quá lắm thời nhổ ra huyết [16]. Chứng
Trạng của Tâm khái, khái thời Tâm thống, trong cuống họng vướng mắc như nghẹn,
quá lắm thời yết thũng, hầu tý [17]. Chứng trạng của Can khái, khái thời hai
hiếp đau, quá lắm thời không thể trở mình, trở mình thời dươi Khư (dưới hiếp,
tức lá lách) đầy [18]. Chứng trạng của Tỳ khái, khái thời Hữu hiếp đau, đau âm
ỷ lên cả vai và lưng, quá lắm thời không thể cử động, cử động thời khái. Chứng
trạng của Thận khái, khái thời đau nhức cả vai lưng, quá lắm thời khái ra dãi
dây.
Hoàng Đế hỏi:
Chứng trạng của
khái do sáu Phủ, thế nào? [20]
Kỳ Bá thưa rằng:
[22]
Năm Tàng mắc khái
lâu, sẽ đi sang sáu Phủ. Tỳ khái không dứt, thời di sang Vị [22]. Chứng trạng
của Vị khái, lúc khái thường nóùân, quá lắm nóùân ra cả giun [23]. Can khái
không dứt, thời di sang Đởm [24]. Chứng trạng của Đởm khái, lúc khái nôn ra cả
Đởm trấp (chua, đắng) [25]. Tâm khái không dứt thì chuyển xuống Tiểu trường
[26]. Chứng trạng của Tiểu trường khái, lúc khái thời thất khí (trung tiện),
khí với khái đều mất [27]. Thận khái không dứt, di sang Bàng quang [28]. Chứng
trạng của Bàng quang khái, lúc khái thời di niệu (són đái) [29]. Khái lâu không
dứt thời di tới Tam tiêu. Chứng trạng của Tam tiêu khái, lúc khái thời phúc
mãn, không muốn uống ăn [30]. Chứng đó đều tụ ở Vị, liên quan lên Phế, khiến
bệnh nhân sinh nhiều nước mũi nước dãi, mặt phù thũng, do khí nghịch gây nên...
[31]
Phương pháp liệu
trị thế nào?
Trị Tàng thời trị
ở Du, trị Phủ thời trị ở “hợp”, nếu phù thũng thời trị ở kinh (1) [32].
THIÊN 39 : CỬ THỐNG LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Tôi nghe người
khéo nói đạo trời, tất có nghiệm ở người, khéo nóùi việc cổ, tất có hợp với
kim, khéo nóùi việc người, tất có đầy đủ ở mình... Có như thế mới khỏi nhầm lẫn
và có thể gọi là minh. Giờ tôi xin hỏi phu tử, làm sao nóùi mà có thể biết,
trông mà có thể thấy, sờ mó mà có thể được... khiến cho có thể nghiệm ở mình,
để khỏi có sự nhầm lẫn, có thể được chăng? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Xin cho biết rõ
muốn biết gì? [2]
Hoàng Đế nóùi:
Xin cho biết. Năm
Tàng bị “thốt thống” (vụt đau), do khí gì gây nên? [3]
Kỳ Bá thưa rằng:
Kinh mạch lúc nào
cũng lưu hành không ngừng, vòng quanh không nghỉ [4]. Nếu hàm khí vào kinh mà
ngừng trệ, dịt lại không dẫn đi được, ký túc ở ngoài mạch thời huyết ít, ký túc
ở trong mạch thời khí không thông, nên “thốt nhiên” mà đau [5].
Hoàng Đế hỏi:
Chứng đau, có khi
thốt nhiên khỏi, có khi đau quá không lúc nào dứt, có khi đau quá không thể đấm
bóp, có khi đấm bóp mà đỡ đau, có khi dù đấm bóp vô ích, có khi suyễn quá, mạch
bựt lên tay, có khi Tâm với bối cùng rút mà đau, có khi hiệp lặc với Thiếu phúc
cùng rút mà đau, có khi phúc thống đau xuốngn âm cổ, có khi đau mãi mà thành
tích, có khi đau mà nóùân, có khi trước phúc thống mà sau tiết tả, có khi đau
mà vít không thông đại và tiểu... Đều không giống nhau, phân biệt thế nào cho
được rành mạch? [6]
Kỳ Bá thưa rằng:
Hàn khí ký túc ở
ngoài mạch thời mạch hàn, mạch hàn thời co quắp, co quắp thời cân cấp, do đó
bên ngoài dẫn tới các tiểu lạc, cho nên thốt nhiên đau. Được hơi nóùng thời đau
khỏi ngay. Nếu lại phạm thêm khí hàn, thời chứng đau sẽ phải lâu [7].
Hàn khí ký túc ở
trong kinh mạch, cùng khí nóùng xung đột lẫn nhau, khiến cho mạch đầy ràn. Vì
đầy ràn nên đau không thể đấm bóp [8].
Hàn khí ngừng
trệ, khí nóùng ngược lên, do đó mạch đầy lớn mà khí huyết loạn, cho nên đau
không thể đấm bóp [9].
Hàn khí ký túc ở
khoảng Trường vị, phía dưới mạc nguyên, huyết không dẫn đi được, các tiểu lạc
co rút, cho nên đau, đấm bóp thời huyết khí tan rã đi, nên đỡ đau [10].
Hàn khí ký túc ấy
ở mạch xương sống, cho nên án mạnh tay xuống cũng không tới, nên dù có đấm bóp
cũng vô ích [11].
Hàn khí ký túc ở
xung mạch, xung mạch khởi quan nguyên, theo “phúc bộ” dẫn lên. Hàn khí ký túc
thời mạch không thông, mạch không thông khiến cho khí nghẽn lên ở Hung nên
suyễn và mạch động bựt lên tay [12].
Hàn khí ký túc ở
mạch Bối du, khiến cho mạch xáp (dịt), mạch xáp thời huyết hư, huyết hư thời
đau. Du đó rót vào Tâm, cho nên cùng rút mà đau. Đấm bóp thời hơi nóùng dẫn
được đến, nên khỏi đau [13].
Hàn khí ký túc ở
mạch quyết âm. Mạch quyết âm chằng xuống âm khí, buộc lên Bào. Về hàn khí ký
túc ở trong mạch, nên huyết xáp, mạch cấp, do đó gây nên chứng hiệp lạc với
Thiếu phúc rút nhau mà đau. Hàn khí ký túc ở âm cổ, mạch ở âm cổ dẫn lên Thiếu
phúc, huyết bị xáp lại ở dưới rút lên, nên phúc thồng thời đau rút xuống cả âm
cổ [14].
Hàn khí ký túc ở
khoảng Tiểu trường Mạc nguyên, và ở bên trong Lạc huyết. Huyết bị xáp không
chảy được tới đại kinh, huyết với khí ngừng trị không dẫn đi được, cho nên dần
dà thành tích... [15]
Hàn khí ký túc ở
năm Tàng, quyết nghịch tiết trở lên, âm khí kiệt, dưỡng khí không lọt vào được
thời lại sống [16].
Hàn khí ký túc ở
Trường vị, quyết nghịch ngược lên, cho nên đau mà nóùân [17].
Hàn khí ký túc ở
Tiểu trường, tại đó không thể gây thành chứng tụ, cho nên sau khi đau thời tiết
hạ [18].
Nhiệt khí lưu ở
Tiểu trường, trong Tiểu trường đau, nóùng nhiều và tiêu khát... Khí nóùng làm
tiêu khô các vật cặn bã trong tiểu trường, nên đau mà ví không thông [19].
Hoàng Đế hỏi:
“Nóùi mà có thể
biết, trong mà có thể thấy” là thế nào? [20]
Kỳ Bá thưa rằng:
Năm Tàng, sáu Phủ
đều có bộ vị ở mặt. Trước hãy xem ở sắc Hoàng, Xích là nhiệt, bạch là hàn,
thanh và hắc là thống... Đó là trong mà có thể thấy [21].
Sờ mó mà biết
được, là thế nào? [22]
Trông cái mạch
của chủ bệnh “kiên” mà đầy huyết, với lúc ấn tay lõm xuống… Đó đều là do sờ mó
mà biết [23].
Hoàng Đế hỏi:
[24]
Tôi biết trăm
bệnh, phần nhiều sinh ra bởi khí. Nóùä thời khí thượng (ngược lên), hỷ thời khí
hoãn, bi thời khí tiêu, khủng thời khí hạ (dẫn xuống), hàn thời khí thâu, thử
thời khí tiết, kinh thời khí loạn, lao thời khí háo (hao mòn), tư (nghĩ ngợi),
thời khí kết... Chín thứ khí không giống nhau, vậy chứng hậu như thế nào? [25]
Kỳ Bá thưa rằng:
Nóùä thời khí
nghịch, quá lắm thời nóùân ra máu, hoặc thành chứng xôn, tiết [26].
Hỷ thời khí hòa,
chí đạt, vinh vệ thông lợi, nên khí hoãn [27].
Bi thời Tâm hệ co
rút. Phế xèo rộng ra, khiến cho Thượng tiêu không thông vinh, vệ không bố tán.
nhiệt khí lưu lại bên trong, nên khí tiêu [28].
Khủng thời tinh
bị sụt xuống, khiến cho Thượng tiêu bị vít, vít thời khí lại phải quay trở
xuống, khiến cho Hạ tiêu phát trướng. Cho nên khí không lưu hành [29].
Hàn thời tấu lý
bị vít, khí không dẫn hành được, nên phải thâu liễm lại [30].
Thử thời tấu lý
dãn ra, vinh vệ thông, hãn ra nhiều, nên khí tiết [31].
Kinh thời Tâm
không tựa vào đầu, thần không nhờ vào đâu, cho nên khí loạn [32].
Lao thời suyễn và
hãn đều tiết ra, trong ngoài đều háo tán, nên khí háo [33].
Tư thời Tâm buộc
vào một nơi, thần chú vào một việc, khiến cho chính khí lưu trệ không lưu
thông, nên mới thánh khí kết [34].
THIÊN 40 : PHÚC
TRUNG LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc bệnh
tâm phúc mãn, sớm ăn thời chiều không thể ăn... Bệnh đó tên là gì? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó tên là Cổ
trướng [2].
Hoàng Đế hỏi:
Điều trị thế nào?
[3]
Kỳ Bá đáp:
Dùng kê thỉ lễ.
Một liều bớt, hai liều khỏi.
Hoàng Đế hỏi:
Có khi lại phục
phát là vì sao? [4]
Đó là do sự uống
ăn không giữ gìn, nên mới gây nên sự “ngã lại” như vậy [5].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc
chứng “đầy ách” ở Hung Hiếp và chi lạc, không ăn được. Mỗi khi bệnh sắp phát,
thời như ngửi thấy mùi tanh hôi nước mũi chẩy ra, nhổ ra huyết, tứ chi lạnh,
mắt hoa, thường thường đại, tiểu tiện cũng ra huyết... Đó là bệnh gì? Vì sao mà
mắc phải? [6]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó gọi là
huyết khô. Nguyên nhân do lúc ít tuổi, có sự gì thoát mất nhiều huyết, hoặc
nhân lúc say rượi mà nhập phòng, trung khí kiệt. Can thương, ở con gái thời
nguyệt cự không xuống được [7].
Điều trị dùng
phương pháp nào? làm sao để phục hồi? [8]
Dùng bốn phần Ô
tặc cốt, một phần Lự nhự. Hai vị hợp lại dùng Trứng chim sẻ luyện làm hoàn,
viên bằng hạt đỗ nhỏ. Mỗi lần dùng 5 viên sau khi ăn cơm, tiêu với nước Bào
ngư... Thuốc đ làm cho lợi trường. Can bị tổn thương [9].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc
chứng thiếu phúc to phình lên, trên dưới tả hữu như có rễ. Đó là bệnh gì? [10]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó tên là
Phục lương [11].
Vì sao mắc chứng
ấy? Phục lương do đâu mà có? [12]
Có một túi bọc
máu và mủ đặc ở ngoài Trường Vị... Rất khó chữa. Mỗi khi án mạnh tay vào chỗ
đó, thời đau điếng muốn chết [13].
Vì sao mắc bệnh
ấy [14].
Đó vì: ở dưới
thời liền với Tam âm, tất có lúc cũng “hạ” ra đôi ít nùng huyết, ở trên thời
với Vị quản, tất có mọc “Ung” ở trong Vị quản... Tất phải trả qua lâu ngày lắm
mới gây nên bệnh ấy. Rất khó chữa [15]. Nếu ở phía trên rốn là nghịch, ở phía
dưới rốn là thuận [15]. Đừng động đến. Về phép điều trị, đã bàn rõ ở thiên
Thích pháp [17].
Hoàng Đế hỏi:
Có người suốt cả
thân thể, đùi, vế, chân đều thống, lại đau ở xung quanh rốn... Là bệnh gì? [18]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó cũng gọi
là Phục Lương, tức là phong căn, (gốc của chứng phong [19]. Cái khí phong tà,
tràn ra ở Đại trường, mà bám vào Hoang [20]. Mà cái gốc của Hoang lại ở dưới
rốn, nên mới đau ở xung quanh rốn [21]. Không nên vọng động vào nóù. Nếu động
vào nó sẽ gây nên chứng thủy sáp (tiểu tiện buốt, nhỏ giọt, không ra được)
[22].
Hoàng Đế hỏi:
Phu tử thường nói
chứng nhiệt trung, Tiêu trung không nên dùng các thứ cao lương, phương thảo,
Thạch dược... Nếu dùng thạch dược sẽ phát điên, dùng phương thảo sẽ phát
cuồng... [23] Nghĩ như chứng nhiệt trung, tiêu trung, phần nhiều chỉ hạng người
phú quý hay mắc. Giờ dùng thức cao lương, thế là không hợp với lòng họ, cấm
dùng phương thảo thạch dược thì bệnh không sao khỏi được. Vậy xin cho biết phải
liệu trị thế nào bệnh đó [24].
Kỳ Bá thưa rằng:
Cái khí của
phương thảo tốt, cái khí của thạch dược hãn (dữ tợn, độc). Hai thứ khí ấy đều
có cái tính “cấp, tật, kiện, kính...” Cho nên, nếu không phải là người có tâm
tính hòa hoãn không uống được nóù [24]. Phàm nhiệt khí thời lật hãn (dữ tợn),
khí cũng vậy, hai thứ ấy gặp nhau sẽ gây nên sự xung đột, e làm nóùäi thương
đến Tỳ. Tỳ thuộc thổ mà ghét mộc. Nếu uống thứ thuốc ấy, đến ngày Giáp Aát sẽ
nguy [25].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc
chứng: Ung thũng, cảnh thống. Hung mãn phúc trướng. Đó là bệnh gì? Vì cớ sao
mắc phải? [26]
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó là bệnh quyết
nghịch [27].
Điều trị thế nào?
[28]
Nếu dùng phép Cứu
thời ám (câm không nói được), dùng phép thích thời phát cuồng... Đợi đến lúc
huyết khí cùng hợp lại với nhau, mới có thể chữa. Vì sao? Dương khí đã bốc
nhiều lên trên, tức là ở trên hữu dư, nếu cứu thời dương, khí sẽ thụt vào âm,
vào âm thời thành ấm, nếu thích thời dương khí hư, hư thời sẽ phát cuồng. Vậy
phải đợi lúc huyết khí cùng hợp với nhau sẽ chữa, mới mong toàn vẹn được [29].
Hoàng Đế hỏi:
Sao có thể biết
đàn bà có thai? [30]
Kỳ Bá thưa rằng:
Vì là người bệnh
(như nôn ọe, mỏi mệt, không muốn ăn v.v...), mà chẩn mạch thời mạch không có
bệnh [31].
Hoàng Đế hỏi:
Người mắc bệnh
nhiệt, mà có đau là vì sao? [32]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh nhiệt đó
thuộc về Dương mạch. Do khi của Tam dương động. Nhân một thịnh thuộc Thiếu
dương, hai thịnh thuộc Thái dương, ba thịnh thuộc Dương minh, rồi mới vào các
kinh âm. Vì Dương lấn vào âm, nên mới mắc bệnh ở đầu với phúc. Do đó mới sinh
ra sân trướng và đầu thống [33].
Hoàng Đế khen
phải.
CHƯƠNG 41 : THÍCH YÊU THỐNG
Túc Thái dương
mạch, khiến người yêu thống (đau ngang chỗ thắt lưng), đau rút suốt xương sống
lên cổ, dưới xuống tới xương khu... Lưng như mang vật gì nặng. Thích Uûy trung
thuộc chính kinh Thác dương cho ra huyết. Mùa xuân đừng để thấy huyết [1].
Mạch kinh Thiếu
dương khiến người yêu thống, như người lấy kim đâm vào trong da, không thể cúi
ngửa, không thể ngảnh đi ngảnh lại... Thích vào đầu thành cốt thuộc kinh Thiếu
dương cho ra huyết. Thành cốt ở tại đầu gối, phía ngoài bên cạnh xương bánh
chè. Mùa hạ đừng để cho thấy huyết [2].
Mạch kinh Dương
minh, khiến người yêu thống không thể ngoảnh đi ngảnh lại... Nếu ngảnh lại
hoảng hốt như trông thấy gì lạ… Thích ba nốt tại trước ống chân thuộc Kinh
Dương minh, để cho trên dưới đều hòa và ra huyết. Mùa Thu đừng để cho thấy
huyết [3].
Mạch kinh Túc
Thiếu Âm khiến người ta bị yếu thống, đau suốt xương sống và cổ “Nổi liêm”. Thích
hai nốt tại phía trong xương thuộc kinh Thiếu âm. Mùa Xuân đừng để cho thấy
huyết. Nếu ra huyết quá nhiều sẽ khó hồi phục [4].
Mạch kinh quyết
âm khiến người yêu thống, trong “yêu” cứng đờ như giương dây cung nốt... thích
ở mạch quyết âm, mạch đó ở sâu trong bọng chân, rờ tay vào thấy chỗ nào xúc xỉu
tức là mạch, sẽ thích. Bệnh này khiến người hay nóùi, nhưng lại nói lộn xộn.
Nên thích ba nốt [5].
Bệnh ở giải mạch
khiến người yêu thống, đau rút lên vai, mắt trong mập mờ, thỉnh thoải lại di
niệu. Thích giải mạch tại chỗ bên ngoài khe khớp xương đầu gối, thích hoàng
mạch ở đó cho ra huyết, mủ trung thấy sắc huyết đổi sắc thì thôi. Bệnh ở giải
mạch khiến người yêu thống như buộc chắc dây lưng thường như muốn gãy, lại hay
sợ. Mạch này tại ủy trung, có kết lạc nổi lên như hạt gạo, thích vào đấy sẽ bắn
máu ra. Thấy máu biến sắc đen thì khỏi [7].
Bệnh tại mạch
Đồng âm, khiến người yêu thống tái yêu nổi lên như cái dùi nhỏ. Thích mạch Đồng
âm, tại đầu phía trên mắt cá ngoài [7].
Bệnh ở Dương Duy
khiến người yêu thống đau mà nổi cồn lên như thũng. Mạch này cùng với mạch Thái
dương hợp, cách xương khoai 7 tấc, các đất một thước [8].
Bệnh ở mạch Hành
lạc, khiến người yêu thống, không thể cúi ngửa. Nếu ngửa lên thời như muốn ngã.
Bệnh này gây nên bởi mang vật nặng làm thương đến yêu, ác huyết tụ lại đó.
Thích ở khoảng gần Khích dương hai nốt cho ra huyết [9].
Bệnh ở mạch Hội
âm, khiến cho người yêu thống, lúc đau mồ hôi ra đằm đìa, tới khi mồ hôi ráo
đi, khiến người khát muốn uống nước, lúc uống nước rồi lại muốn chạy. Thích
mạch trước dương. Thích trên mạch trực dương ba nóùát. Mạch này tại trên Kiểu
dưới Khích 5 tấc, nóù nằm ngang. Thấy mạch đó thịnh, phải để cho xuất huyết
[10].
Bệnh ở mạch Phi
dương khiến người yêu thống, lúc đau tê tái rầu rĩ, quá lắm thời kiêm cả bi và
khủng. Thích mạch Phi dương tại phía trong xương khoai 5 tấc, trước mạch Thiếu
ấm, cùng hội với mạch âm duy [11].
Bệnh ở mạch Xương
dương khiến người yêu thống, đau rút sang lồng ngực, quá lắm, lưng như gãy, mắt
trong lòe loẹt, lưỡi cong lại không thể nóùi, thích hai nốt ở Nội Cân, huyệt
tại trước Giao tín, Đại cân phía trên xương khoai, và dưới xương khoai sau
huyệt Thái âm hai tấc [12].
Bệnh ở Tán mạch
khiến người yêu thống mà nhiệt, Nhiệt quá sinh phiền. Trong yêu như có mảnh gỗ
chắn ngang, quá lắm thời di niệu. Thích Tán mạch tại khe thịt trước xương gối,
tức là Thúc mạch. Thích ba nốt [13].
Bệnh ở mạch Nhục
lý khiến người yêu thống đau không thể ho, ho thời gân rút gấp. Thích hai nốt ở
mạch Nhục lý huyệt tại Dương phụ bên ngoài huyệt Thái dương và phía sau Tuyệt
cốt thuộc Thái dương [14].
Yêu thống suốt
lên xương sống, đau đến nóùãi cổ chỉ hơi ngọ ngoạy được, mắt trong lòe loẹt,
như muốn ngã. Thích ở huyệt Khích trung thuộc Thái dương cho ra huyết. Uûy
trung [15].
Yêu thống mà bộ
phận trên hàn, thích ở huyệt Thái dương, Dương minh. Bộ phận trên nhiệt, thích
ở huyệt Túc quyết âm đau không thể cúi ngửa, thích ở huyệt Thiếu dương, bên
trong nóng mà suyễn, thích ở huyệt Thiếu âm, và thích ở huyệt Ủy trung cho ra
huyết [16].
Yêu thống mà bộ
phận trên hàn, đến không thể ngảnh đi, âm thụ ngảnh lại, thích ở huyệt Túc
Dương minh, nếu bộ phận trên nhiệt, thích ở huyệt Túc Thái âm, nếu trung nhiệt
mà suyễn, thích ở huyệt Túc thiếu âm [17].
Đại tiện khí,
thích ở huyệt Túc quyết âm [18].
Thiếu phúc mãn,
thích ở huyệt Túc quyết âm [19].
Đau nhữ gẫy,
không thể cúi ngửa, không thể cử động, thích huyệt Túc Thái dương [20].
Đau rít lên trong
đường xương sống, thích ở huyệt Túc Thiếu âm [21].
Yêu thống rút
xuống Thiếu phúc, không thể ngửa, thích ở huyệt yêu cầu giao hai bên, lấy số
ngày “sinh tử” của mặt trăng để định nốt thích (1), rút châm, khỏi ngay. Đau
bên tả, thích bên hữu, đau bên hữu thích bên tả [22].
THIÊN 42 : PHONG LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Phong nó làm
thương người, hoặc phát chứng hàn nhiệt, hoặc là chứng nhiệt trung, hoặc là
chứng hàn trung, hoặc là lệ phong, hoặc là thiên khô, hoặc là phong... Bệnh đã
khác nhau, danh cũng không giống, hoặc phạm tới cả năm Tàng sáu Phủ... Không
hiểu nguyên nhân ra sao, xin cho biết rõ [1].
Kỳ Bá thưa rằng:
Phong khí tàng ở
khoảng bì phu, trong không thể thông, ngoài không thể tiết... Nó “dẫn đi rất
chóng mà biến đổi luôn” làm tấu lý mở rỗng, thời ghê rợn mà rét, làm tấu lý vít
lấp, thời nhiệt mà khó chịu [2]. Nó hàn thời uống ăn kém sút, nó nhiệt thời cơ
nhục hao mòn [3]. Nếu làm cho người bợt bạt mà không ăn được thời gọi là Hàn
nhiệt [4].
Phong khí với khí
của Dương minh dồn vào Vị, đi vòng lên đến phía đầu mắt, nếu là người béo, thời
phong khí không tiết ra ngoài được, sẽ gây nên chứng Nhiệt trung mà mắt vàng,
nếu là người gầy, thời tiết ra ngoài mà hàn, sẽ gây nên chứng hàn trung và chảy
cả nước mắt, nước mũi [5].
Phong khí cùng
vào với khí của Thái dương, dẫn đi ở mạch du, giải rắc ra ở khoảng phận nhục,
cùng xung đột với Vệ khí, khiến cho mạch đạo không thông lợi, gây nên chứng cơ
nhục sùi sưng thành mụn lở. Vệ khí có chỗ không dẫn hành được, sẽ gây nên chứng
bất nhân [6].
Về Lệ phong, do
vinh khí nhiệt tụ ở cơ nhục, khiến khí không trong mát, gây nên chứng dọc mũi
loét nát mà sắc bại, bì phù lở nát. Phong hàn ký tục ở mạch mà không dẫn đi
ngược, gọi là Lệ phong, hoặc lại gọi là “hàn, nhiệt” [7].
Tiết lập xuân,
ngày Giáp, Aát, bị thương vì Phong, gọi là Can phong, mùa Hạ, Bính, Đinh bị
thương vì phong, gọi là Tâm phong, mùa qúi hạ, Mậu, Kỷ bị thương vì phong, gọi
là Tỳ phong, mùa Thu, Canh Tân bị trúng về tà, gọi là Thận phong [8].
Phong trúng Du
huyệt của năm Tàng sáu Phủ, cũng gọi là phong của Tàng, Phủ [9].
Nếu trúng vào cửa
ngõ của khí huyết, thời gọi là Thiên phong [10].
Phong khí theo
phong phủ mà dẫn lên, gọi là Não phong [11].
Phong khí phạm
vào đầu hệ, thời gây nên chứng mục phong, nhãn hàn [12].
Uống rượu mà
trúng phong, thời là Lậu phong [13].
Nhập phòng, hãn
ra mà trúng phong, thời là Nóäi phong [14].
Mới gội đầu mà
trúng phong, thời là Thủ phong [15].
Phong phạm vào bộ
phận trong đã lâu ngày, thời tà chứng Trường phong, Xôn tiết [16].
Phong lưu ở ngoài
Tấu lý, thời là Tiết phong... [17]
Cho nên “phong là
trưởng của trăm bệnh”. Đến khi nó biến hóa để gây nên chứng bệnh khác thời
không có phương hướng nhất định... Nhưng tóm lại thời lúc nào cũng do “phong
khí” mà gây nên [18].
Hoàng Đế hỏi:
Năm Tàng bị
phong, chứng trạng khác nhau thế nào, và xin cho biết phép chẩn với bệnh nặng
(sự biến chuyển của bệnh...) [19]
Kỳ Bá thưa rằng:
Chứng trạng của
Phế phong, nhiều hãn mà ố phong, thỉnh thoảng ho, hơi thở ngắn, ban ngày nhẹ,
về đêm nặng. Chẩn ở phía trên lông mày, sắc trắng bợt [20].
Chứng trạng của
Tâm phong nhiều hãn mà ố phong môi khô rộp, hay giận giữ. Bệnh nặng thời nói ra
khó khăn. Chẩn ở miệng, sắc đỏ [21].
Chứng trạng của
Can phong nhiều hãn mà ố phong, hay bị (buồn, thương), họng khô, hay giận, có ý
như ghét đàn bà. Chẩn ở dưới mắt, sắc mặt tái xanh [22].
Chứng trạng của
Tỳ phong, nhiều hãn mà ố phong, thân thể mỏi mệt, tứ chi không muốn cử động,
không muốn ăn, chẩn ở trên mũi, sắc vàng [23].
Chứng trạng của
Thận phong, nhiều hãn mà ố phong, mặt phù thũng, xương sống đau không đứng
thẳng được, trong lòng có sự như không được toại ý. Chẩn ở ngoài da, sắc sạm
đen [24].
Chứng trạng của
Vị phong, cổ nhiều hãn mà ố phong, uống ăn khó khăn, như có vướng mắc nuốt
không trôi, phúc bộ hay đầy, nếu không đắp bụng thời hay trướng, ăn thức hàn
thời sinh tiết tả. Chẩn thấy thân thể gầy mà bụng to [25].
Chứng trạng của
Thủ phong, đầu và mặt nhiều hãn mà ố phong. Trước chứng phong phát sinh một
ngày thời bệnh nặng, đầu nhức đến nóãi không thể bước ra ngoài, đến ngày phong
phát, thời bệnh lại hơi bớt [26].
Chứng trạng của
Lậu phong, có nhiều hãn, thường không dám mặc áo đơn, đến bữa ăn thời hãn ra,
có khí hãn nhiều mà thở suyễn, ghê gió, áo thường ẩm ướt vì hãn, miệng khô và
khát, không làm được công việc nhọc mệt [27].
Chứng trạng của
tiết phong, nhiều hãn, hãn ra ướt cả áo, trong miệng khô, không làm được việc
nặng nhọc, toàn thân đều đau và rét...(Rét vì ra hãn nhiều, thành vong dương)
[28].
CHƯƠNG 43: TÝ LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh Tý (tê, đau)
vì đâu sinh ra? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Ba khí “phong,
hàn, thấp” lẫn lộn dồn đến, hợp lại thành chứng Tý. Trong ba khí đó, nếu phong
khí thắng thời là Hàn Tý, hàn khí thắng thời là Thống tý, Thấp khí thắng thời
là Chước tý [2].
Hoàng Đế hỏi:
Tôi nghe lại có
năm chứng Tý, là vì sao? [3]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mắc bệnh về mùa Đông, là Cốt tý, mắc bệnh về mùa Xuân gọi là Cân tý, mắc bệnh
về mùa hạ gọi là Mạch tý, mắc bệnh vào thời điểm Chí âm gọi là Cơ tý, mắc bệnh
về mùa Thu gọi là Bò tý [4].
Hoàng Đế hỏi:
Có khí ở bên
trong, ký túc vào năm Tàng, vậy khí nào làm nên thế? [5]
Kỳ Bá thưa rằng:
Năm Tàng đều có
“Hợp” bệnh mắc lâu không giải đi được, sẽ ký túc vào nơi “hợp” đó. Cho nên, nếu
Cốt tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Thận, Cân tý không dứt, lại
cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Can, Mạch tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký
túc tại Tâm, Cơ tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Tỳ, Bì tý không
dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Phế... [6] Vậy, phàm chứng Tý, đều theo
về từng mùa, rồi lại cảm thêm với khi phong, hàn, thấp... mà gây nên [7].
Phàm chứng Tý ký
túc ở năm tàng, sinh ra các chứng trạng sau này: [8]
Phế tý thời phiền
mãn, suyễn mà ẩu (ọe) [9].
Tâm tý thời huyết
mạch không thông, vì tà bách dưới Tâm, dồn mạnh phạm lên Tâm tàng, nên phiền,
lại thêm chứng thượng khi mà suyễn, cuống họng khô, hay ợ, quyết khí ngược lên
nên hay khủng [10].
Can Tý, đêm nằm
hay giật mình, uống nước nhiều, tiểu tiện luôn, trong bụng anh ách, như đàn bà
có thai [11].
Thận tý hay
trướng, xương khu dồ lên, xương sống gù xuống [12].
Tỳ tý thời tứ chi
mỏi mệt rã rời, hay lo, nóân ra nước dãi, trên Hung bị nghẽn [13].
Trường tý, uống
nước luôn mà không tiểu tiện ra được, trung khí suyễn cấp, thỉnh thoảng lại
thành chứng xôn tiết [14].
Bào tý thời thuộc
bộ phận Thiếu phúc và Bàng quang, án mạnh tay, thấy đau ở bên trong như dội
nước nóng vào, tiểu tiện lại ít, và hay chảy nước mũi trong [15].
Phàm âm khí (tức
tàng khí) tĩnh thời tàng thần, táo thời tiêu vong, nếu uống ăn quá độ. Trường
Vị sẽ bị thương (nếu bị thương, tà khí sẽ thừa cơ phạm vào mà gây nên chứng tý)
[16].
Nếu thấy suyễn
tức quá độ, thời biết chứng Tý tụ ở Phế, thấy ưu tư quá độ, thời biết chứng Tý
tụ ở Tâm, thấy sự di niệu luôn luôn, thời biết chứng Tý tụ ở Thận, thấy sự mỏi
mệt quá độ, thời biết chứng Tý tụ ở Can, thấy da dẻ khô khan xãm xĩnh, thời
biết Tý tụ ở Tỳ [17]. Phàm chứng Tý không khỏi, sẽ càng ngày càng nặng thêm.
Duy có chứng thuộc về “phong khí thắng” thời dễ khỏi hơn [18].
Hoàng Đế hỏi: Về
chứng Tý, có người bị chết, cũng có người lâu ngày mới khỏi, là vì cớ sao? Xin
cho biết rõ [19].
Kỳ Bá thưa rằng:
Chứng Tý, phạm thẳng vào Tàng, sẽ chết, nếu lưu niên ở khoảng gân xương, thời
lâu khỏi, nếu chỉ ở khoảng bì phu, thời chóng khỏi [20-].
Hoàng Đế hỏi: Nếu
lý túc ở sáu phủ thì sao? [21]
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó cũng chỉ là do sự uống ăn, cư xử mà gây nên. Sáu phủ cũng đều có Du, các khí
“phong, hàn, thấp, trúng vào Du, nhân có sự uống ăn tiếp theo, do Du mà vào,
rồi đến ký túc vào Phủ [22].
Hoàng Đế hỏi:
Dùng châm để điều trị, thế nào? [23]
Kỳ Bá thưa rằng:
Năm Tàng có Du, sáu Phủ có Hợp. Theo bộ phận của mạch, để tìm nơi mắc bệnh mà
thích, sẽ khỏi [24].
Hoàng Đế hỏi: Khí
của doanh, Vệ, có gây nên bệnh Tý chăng? [25]
Kỳ Bá thưa rằng:
Vinh, là tinh khí của thủy cốc. Nó hòa điều ở năm Tàng, thấm nhuần ở sáu Phủ,
rồi sau mới dẫn vào mạch. Mạch đó vòng khắp trên dưới, suốt qua năm Tàng và
chằng vào sáu Phủ [26]. Vệ, là một thứ hãn khí (mạnh, dữ) của thủy cốc. Cái
tính của nó lật tật, hoạt lợi, không thể vào trong mạch, cho nên dẫn đi ở trong
bì phu, khoảng phận nhục, hun lên “hoang mạc”, tan ra “hung phúc” [27].
Trái khí đó thời
sinh bệnh, thuận khí đó thời sẽ khỏi [28].
Nó không hợp với
các khí phong, hàn, thấp. Nên không gây nên bệnh Tý [29].
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh Tý có khí đau, có khí không đau, có khí bất nhân, có khí hàn, có khí
nhiệt, có khí táo, có khi thấp... là vì sao? [30]
Kỳ Bá thưa rằng:
[31]
Đau là do hàn khí
nhiều. Còn như không đau và bất nhân, là vì bệnh lâu vào sâu, Doanh Vệ dẫn đi
bị rít, kinh lạc có lúc xơ rỗng, nên bất thông, bì phu không có huyết thấm
nhuần, nên bất nhân [32]. Đến như chứng hàn, do Dương khí ít, Aâm khí nhiều,
giúp thêm cho bệnh, nên mới hàn [33]. Đến như nhiệt, do Dương khí nhiều, Aâm
khí ít, bệnh khí thắng, dương gặp âm, nên mới thành Nhiệt tý [34]. Như nhiều
hãn đằm đìa, đó là vì gặp thấp nhiều [35]. Dương khí ít, âm khí thịnh, hai khí
cùng cảm nhau, nên hãn mới ra đằm đìa [36].
Lại có chứng Tý,
không đau là vì sao? [37]
Tý mắc ở xương
thời nặng, mắc vào mạch thời huyết đọng mà không chảy, mắc ở cân thời co vào mà
không duỗi ra được mắc ở thịt thời bất nhân, bì thời hàn... Gặp năm chứng đó
nên không đau [38]. Phàm bệnh Tý, gặp hàn, thời như kiến bò trong da, gặp nhiệt
thời gân rã rời, không cử động được [39].
THIÊN 44 : NUY LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Năm Tàng, gây nên
chứng Nuy, thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phế chủ về bì
mao, Tâm chủ về huyết, Can chủ về cân mạc, Tỳ chủ về cơ nhục, Thận chủ về cốt
tủy [2].
Phế nhiệt, lá
phổi khô, bì mao do đó hư nhược cấp bách, gây nên chứng Nuy bịch [3].
Tâm khí nhiệt,
thời mạch ở dưới, quyết mà nghịch lên trên, do đó mạch ở dưới hư, vì hư sinh ra
mạch nuy, ống chân rã rời không bước đi được [4].
Can khí nhiệt
thời đởm rà ra mà miệng đắng, cân mạc khô, vì khô nên cân cấp mà co rút, thành
chứng Cân nuy [5].
Tỳ khí nhiệt,
thời Vy khô mà khát, cơ nhục bất nhân, thành chứng nhục nuy [6].
Thận khí nhiệt
nên “yêu, tích” không cất lên được, xương khô mà tủy vơi, thành chứng cốt nuy
[7].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết rõ
nguyên nhân... [8]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phế là một quan
“trưởng” của các Tàng, nó như cái “lọng” che cho Tâm, Có sự gì bỏ mất, cầu
không thể được, thời gây nên chứng.
Phế minh (kêu).
Kêu thời Phế nhiệt mà Phế diệp khô đét đi... Nên mới nói:
“Năm Tàng do “Phế
nhiệt, diệp tiêu”, gây nên chứng Nuy bịch (chân lỏng gân, không lê đi được)
[9].
Bi ai quá độ thời
bào mạch tuyệt. Bào mạch tuyệt khiến cho Dương khí phát động ở bên trong, do đó
Tâm hạ huyết băng, thành chứng tiểu ra huyết. Cho nên ở bản kinh nói: “Đại kinh
không hư, gây nên chứng cơ tý, truyền làm chứng Mạch Nuy” [10].
Nghĩ ngợi quá độ,
không được toại nguyện, ý dâm ở bên ngoài, lại nhập phòng vô hạn, tông cân rã
rời, thành chứng cân nuy, và Bạch dâm (tinh khí tự tiết ra). Cho nên kinh nói:
“chứng Cân nuy sinh ra bởi Can mà nguyên nhân là sự nhập phòng” [11].
Vì yêm lưu ở nơi
ẩm thấp, khiến cho thấp khí thấm thía ở trong Cơ nhục, thành “tý” mà bất nhân,
do đó gây nên chứng Nhục nuy. Cho nên Kinh nói: “Nhục nuy gây nên bởi thấp”
[12].
Vì sự đi xa nhọc
mệt, gặp đại nhiệt mà khát, vì khát nên Dương khí bị suy sút ở bên trong, do đó
nhiệt sẽ thừa cơ ký túc ở Thận. Thận là Thủy tàng. Giờ Thủy không thắng được
Hỏa, thời xương khô mà tủy vơi, nên chân không thể đi xuống đất, gây nên chứng
Cốt nuy. Cho nên ở Kinh nói: “chứng Cốt nuy gây nên bởi đại nhiệt” [13].
Hoàng Đế hỏi:
Lấy gì để phân
biệt? [14]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phế nhiệt thời
sắc mặt trắng bợt mà lông rụng [15]. Tâm nhiệt thời sắc mặt đỏ mà Lạc mạch ràn
[16]. Cam nhiệt thời sắc mặt tái xanh mà móng tay khô [17]. Tỳ nhiệt thời sắc
mặt vàng mà thịt trường rung động [18]. Thận nhiệt thời sắc mặt đen xạm mà răng
se [19].
Hoàng Đế hỏi:
Vậy sao nói đến
phương pháp trị chứng. Nay lại chuyên trách về Dương minh, là thế nào? [20]
Kỳ Bá thưa rằng:
Dương minh là cái
biểu của năm Tàng, sáu Phủ, chủ về làm nhuận cho tông cân, tông cân chủ về bó
ràng ngoài xương, để cho các khớp được hoạt lợi [21]. Xung mạch là biểu của
Kinh mạch. Chủ thấm nhuần cho các Khê, Cốc (các bắp thịt lớn, nhỏ), cùng với
Dương minh hợp vào tông cân. Aâm, Dương bao trùm tất cả chỗ hội họp của tông
cân [22]. Aâm dương bao trùm tất cả chỗ hội họp của Tông cân, để hội ở Khí
khái, mà Dương minh sẽ là Trưởng, đều thuộc về Đái mạch, mà “lại’ sang Đốc
mạch. Cho nên hễ Dương minh bị hư thời Tông cân bị lỏng ra, Đái mạch không dẫn
tới nữa, cho nên chân “nuy” không dùng được [23]. Điều trị thế nào? [24] Trước
phải bổ Vinh, rồi thông đến Du, làm cho những hư thực được quân bình, những
nghịch thuận được điều hòa, cân mạch, cốt, nhục đều theo đúng vào mùa và
tháng... Thời bệnh khỏi (1) [25].
Hoàng Đế khen là
đúng.
CHƯƠNG 45 : QUYẾT LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh quyết (tay
chân giá lạnh) chia ra hàn nhiệt, là vì sao ? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Dương khí suy ở
dưới thời thành chứng Hàn quyết, âm khí suy ở dưới, thời thành chứng Nhiệt
quyết (1) [2].
Hoàng Đế hỏi:
Về chứng Nhiệt
quyết, tức là dương quyết, vậy sao lại khởi tứ túc tâm (lòng bàn chân, thuộc
âm).? [3]
Kỳ Bá thưa rằng:
Dương khí phát ra
khởi rừ ngoài năm đầu ngón chân. Phàm âm mạch hợp ở dưới chân mà tụ ở Túc tâm.
Vì dương khí thắng, nên túc tâm nhiệt [4].
Vế chứng Hàn
quyết, tức là âm quyết, vậy sao lại khởi tử năm đầu ngón tay, rồi lan đến gối.?
[5]
Aâm khí phát ra
khởi từ phía trong năm ngón tay, hợp ở dưới gối, mà tụ ở trên gối. Vì âm khí
thắng, nên từ năm ngón tay đến trên gối hàn. Chứng hàn đó, không pháp sinh từ
bên ngoài mà là từ bên trong [6].
Hoàng Đế hỏi:
Về chứng Hàn
quyết, do Tàng nào bị khiếm khuyết mà gây nên? [7]
Kỳ Bá thưa rằng:
Tiền âm là nơi tụ
họp của Tông cân, và là chỗ “hợp” của Thái âm, Dương minh [8].
Về hai mùa Xuân,
Hạ thời dương nhiều mà âm khí ít, về hai mùa Thu Đông thời Aâm khí thịnh mà
Dương khí suy [9].
Giờ người mắc
bệnh đó, vì sức khỏe, về hai mùa Thu Đông làm lụng quá độ, khí ở dưới cố dẫn
lên, không thể lại quay trở xuống... Do đó, tinh khí cũng bị ràn ra ở dưới. Cái
tà âm hàn liền thừa cơ mà sấn lên [10].
Phàm khí, đều
phải nhờ ở trung tiêu. Giờ Dương khí suy, không thể thấm nhuần ra Kinh, Lạc,
dương khí càng ngày sút dần, âm khí càng ngày thịnh lên... vì vậy nên tay chân
hàn [11].
Hoàng Đế hỏi:
Về chứng nhiệt
quyết, do Tàng nào khiếm khuyết mà gây nên? [12]
Kỳ Bá thưa rằng:
Rượu uống vào Vị,
thời Lạc mạch “mãn” mà Kinh mạch ‘hư”. Tỳ là một cơ quan du chuyển tân dịch cho
Vị. Aâm khí đã hư, thời Dương khí sẽ lấn vào, do đó Vị thành ra không hòa. Vì
Vị không hòa, nên tinh khí bị kiệt, không thể thấm nuôi ra Tứ chi...Vậy người
mắc bệnh đó, tất do sự uống say, ăn nó mà nhập phòng, khí tụ ở Tỳ, không tán đi
được. Tửu khí với cốc khí cùng xung đột nhau, nhiệt thịnh ở bên trong, cho nên
khắp mình đều nhiệt, mà nước tiểu cũng đỏ [13]. Ngâm như rượu, khí của nó thịnh
mà tật hãn, nó làm cho Thận khí hằng ngày suy sút, Dương khi hàng ngày tăng
lên, vì vậy nên thủ túc mới nhiệt [14].
Hoàng Đế hỏi:
Về chứng quyết,
có khi khiến người phúc mãn, có khi khiến người đột nhiên bất tri nhân (không
biết người, tức bất tỉnh...), có người đến nửa ngày, hoặc suốt ngày, rồi mới
tri nhân, là vì sao? [16]
Kỳ Bá thưa rằng:
Aâm khí thịnh ở
trên thời dưới hư: vì dưới hư nên thành chứng phúc trướng mãn... Dương khí
thịnh ở trên, thời khí ở dưới cũng theo lên, do đó tà khí cũng ngược lên, tà
khí đã ngược lên thời Dương khí loạn. Dương khí loạn nên bất tri nhân [16].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết
chứng Quyết của sáu Kinh mạch như thế nào ? [17]
Kỳ Bá thưa rằng:
Chứng Quyết thuộc
kinh Cự dương thời đầu nhức và nặng, chân đi khó khăn, có khi chóng mặt mà ngã
[18].
Chứng quyết của
kinh Dương minh thời phát điên, chỉ muốn chạy ra kêu to, phúc mãn không thể
nằm, mặt đỏ mà nóng, thấy bậy nói càn [19].
Chứng quyết của
kinh Thiếu dương, bỗng dưng tai điếc, quai hàm sưng mà nhiệt, sườn đau, xương
đầu gối không cử động được [20] .
Chứng quyết của
kinh Thái âm, thời phúc mãn mà trướng vượt lên, đại tiện khi, không muốn ăn, ăn
vào thời nóân, không nằm được [21].
Chứng quyết của
kinh Thiếu âm thời miệng khô, nước tiểu đỏ, phúc mãn và tâm thống [22].
Chứng quyết của
kinh quyết âm thời Thiếu phúc sưng và đau, phục trướng, tiểu tiện không lợi,
hay nằm co đầu gối, âm hành rụt lại hoặc sưng, trong bọng chân nóng. Thịnh thời
nên tả, hư thời nên bổ. Không thịnh không hư, nên thích ở bản kinh [23].
Chứng quyết
nghịch ở Thái âm, ống chân đau rút. Tâm thống dẫn xuống phúc. Nên trị nơi chủ
bệnh (tức Tỳ, vị Tỳ chủ về khí ở kinh này). (1) [24].
Chứng quyết
nghịch của thiếu âm, hư mãn và ẩu nghịch, đi tả ra nước trong, nên trị nơi chủ
bệnh của nó [25].
Chứng quyết
nghịch của quyết âm, vòng ngang lưng đau, hư mãn và tiểu tiện bị vít, nói mê
lảm nhảm... nên trị nơi chủ bệnh [26].
Ba kinh âm đều
nghịch, đại tiểu đầu bị vít, khiến bệnh nhân tay chân giá lạnh, trong vòng ba
ngày sẽ chết (1) [27].
Chứng quyết
nghịch của Thái dương, ngã lăn, ẩu huyệt, hay Nục (đổ máu đằng mũi). Nên trị ở
nơi chủ bệnh [28].
Chứng quyết
nghịch của Thiếu dương, các cơ quan không dễ dàng, khiến cho yêu đau không đi
được, cổ đau không ngoảnh được. Rồi phát ra chứng Trường ung, hoặc phát sinh,
sẽ chết [29].
Chứng quyết
nghịch của Dương Minh, suyễn và ho, mình nóng, hay kinh, nục ẩu huyết [30].
Chứng quyết
nghịch của Thủ Thái âm, hư, đầy mà ho, hay nóân ra nước dãi... Trị ở nơi chủ
bệnh [31].
Chứng quyết
nghịch của Thủ Thái âm, Tâm thống rút lên cuống họng, mình nóng, không thể chữa
[32].
Chứng Quyết
nghịch của Thủ Thái dương, tai điếc, nước mắt chảy ra, cổ không thể ngoảnh
được, yêu không thể cú ngửa được. Trị ở nơi chủ bệnh [33].
Chứng quyết
nghịch của Thủ Dương minh, phát chứng Hầu tý, sưng trong cuống họng, hoặc thành
chứng “Kinh”. Trị ở nơi chủ bệnh (1) [34].
THIÊN 46 : BỆNH NĂNG LUẬN
Hoàng Đế hỏi
rằng:
- Người mắc bệnh
Vị quản ung, chẩn thế nào có thể biết được? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
- Chẩn bệnh đó,
nên “hậu” ở Vị mạch. Mạch đó sẽ Trầm. Tế Trầm, Tế là do khi nghịch. Nghịch thời
mạch ở Nhân nghinh tất phải rất thịnh, rất thịnh nên nhiệt[2].
Nhân nghinh là
mạch của Vị. Nếu nghịch mà thịnh thời đó là do nhiệt tụ ở Vị khẩu, mà không dẫn
đi được, nên mới thành chứng Ung ở Vị khẩu [3].
Hoàng Đế hỏi:
Vì sao bệnh nhân
không thể nằm yên? [4]
Kỳ Bá thưa rằng:
Vị Tàng bị
thương, tinh khônng thể dẫn đi, qui tụ cả vào Vị, nên không thể nằm yên [5].
Không thể nằm
ngửa được, là vì sao? [6]
Phế, như cái lọng
che cho cả các Tàng. Phế khí thịnh nện mạch Đại, mạch đại nên không thể nằm
ngửa. Đã bàn rõ ở thiên Kỳ hằng âm dương [7].
Có người mắc bệnh
Quyết, chẩn mạch bên Hữu trầm mà Khẩn, mạch bên Tả Phù mà Trì...Vậy chủ bệnh ở
đâu? [8]
Nếu chẩn về mùa
Đông, mạch bên Hữu vốn nên Trầm Khẩn, đó là ứng với bốn mùa, mạch bên Tả Phù mà
Trì, dó là trái với bốn mùa. Ở bên tả, nên chủ về bệnh ở Thận, cũng có quan hệ
đến Phế, và đau ở “yêu” [9].
Vì sao? [10]
Vì mạch của kinh
Thiếu âm suốt qua Thận, chằng lên phế. Giờ chẩn được Phế mạch, đủ biết là Thận
cũng mắc bệnh mà thành chứng đau ở “yêu” [11].
Có người mắc
chứng Cảnh ung (mụn ở cổ), hoặc dùng đá, hoặc dùng châm và cứu, mà đều khỏi,
vậy chính bệnh nó ở đâu? [12]
Đó, danh tuy
giống nhau, nhưng bệnh chứng lại có khác. Về khí của bệnh Ung, nên dùng đá để
tả... Vì vậy nên bệnh danh không khác mà trị pháp lại khác [13].
Có người mắc bệnh
“giận dữ, rồi dại”, nguyên nhân bởi đâu? [14]
Đó là sinh ra bởi
khí dương ... [15]
Khí dương, sao
lại có cuống? [16]
Dương khí vì nén
ép, không phấn phát lên được, mới thành chứng cuồng nóä (1). Bệnh đó gọi là
Dương quyết [17].
Điều trị bằng
phép nào? [18]
Dương minh thời
thường động, Cự dương Thiếu dương không động. Giờ lại động mà đại, tật, nên mới
thành bệnh. Vậy giờ chỉ giảm bớt ăn, sẽ khỏi [19].
Phàm ăn, thời nhờ
ở sự biến hóa của Thái âm mà trướng khí ở Dương minh. Dương minh là một cơ quan
vừa nhiều khí lại nhiều huyết, nếu lại cho thêm thức ăn vào thời dương càng
thịnh mà cuồng càng tăng. Vậy điều cần nhất là giảm bớt ăn, rồi cho uống nước
“sinh thiết lạc”, vì nó có cái năng lực hạ khí rất hay [20].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc bệnh
mình nóng, rã rời, hãn ra như tắm, ố phong và thiểu khi… Đó là bệnh gì? [21]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó gọi là
Tửu phong [22].
Điều trị thế nào?
[23]
Dùng Trạch tả,
Truật, mỗi vị 10 phân, Mi hàm thảo (tức vô tâm thảo, hoặc vô phong thảo) 5
phân, dùng ba nhúm tay, uống sau khi ăn cơm [24].
Như nói: “mạch
Trầm mà tế...” tức là khí chẩn mạch tin vào tay chỉ như hình “châm” lấy tay
miết mạch xuống, nếu Tỳ khí tụ ở Tỳ thời mạch sẽ “kiên”, nếu Thận khí dồn lên
Can, Can dồn lên Tâm thời mạch sẽ “đại” . [25]
THIÊN 47 : KỲ BỆNH LUẬN
Hoàng Đế hỏi
rằng:
Có người có thai,
được 9 tháng, bỗng dưng câm, là bệnh gì? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó là do mạch của
bào lạc bị nghẽn... [2]
Vì sao? [3]
Bào lạc, buộc vào
với mạch của Thủ Thiếu âm suốt qua Thận chằng lên cuống lưỡi... vì thế nên
không nói được [4].
Điều trị thế nào?
[5]
Không cần điều
trị, qua 10 tháng, thai sinh rồi sẽ lại nói được [6].
Thích pháp nói:
“Đừng làm tổn cho bất túc, đừng giúp ích cho hữu dư... đợi khi thành bệnh đã,
rồi sau sẽ điều trị...”. “Đừng làm tổn bất túc” là vị bệnh nhân đã gầy còm,
không còn dùng Châm, thạch vào đâu được nữa [7].
“Đừng giúp ích
cho hữu dư..” là vì trong bụng “có hình” mà lại làm cho tiết ra, tức thời
“tinh” cùng tiết ra theo, khiến cho bệnh tà được một mình chiếu cứ ở trong...
Do đó, sẽ lại gây thêm bệnh [8].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc bệnh
dưới hiếp mãn, khí nghịch, tới hai ba năm vẫn không khỏi, đó là bệnh gì? [9]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó gọi là
“Tức tích”. Nó không trợ ngại việc ăn, nhưng không thể cứu và thích. Phả dùng
phép Đạo dẫn rối mới uống thuốc, chỉ một mình thuốc không chữa được (1) [10].
Hoàng Đế hỏi:
Có người chứng
thân thể, vế, đùi, bọng chân đều thũng, xung quanh rốn đau… Đó là bệnh gì? [11]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó gọi là
Phục lương, tức là gốc của Phong khí nó tràn ra ngoài Đại tràng mà bám lên
Hoang. Gốc của Hoang lại ở phía dưới rốn, vì thế nên đau ở xung quanh rốn. Đừng
động đến nó. Nếu động đến nó sẽ gây nên thủy bệnh và Niệu sắc (tiểu tiện bí,
rít, không ra được) [12].
Hoàng Đế hỏi:
Có người Xích
mạch sắc quá, cân cấp mà lại hiện cả lên sắc mặt... Đó là bệnh gì? [13]
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó gọi là “Chẩn
cân” (tức gân mắc bệnh). Bệnh nhân phúc bộ tất co rút, mặt hiện ra sắc trắng
hoặc đen. Như vậy là bệnh [14].
Có người mắc
chứng nhức đầu, vài năm mới khỏi. Vì đâu mà sinh ra như vậy? Và gọi là bệnh gì?
[15]
Người đó tất từng
phạm phải đại hàn, bên trong sâu vào tới xương tụy, tủy, tủy lấy não làm gốc.
Vi não bị nghịch, nên thành chứng đầu thống, và đau tới cả răng. Tên bệnh là
quyết nghịch [16].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc
bệnh, trong miệng cứ có vị ngọt luôn, tên là bệnh gì? Vì sao mắc phải? [17]
Đó là ngũ khí ràn
lên. Trên là Tỳ đản [18].
Phàm năm vị ăn
vào miệng chứa ở Vị, Tỳ vì Vị dẫn hành tinh khí. Bao tân dịch đều ở Tỳ, nên
thành chứng khẩu cam (ngọt ở miệng). Bệnh đó do ăn nhiều các thứ “phì mỹ” (béo,
ngon) mà sinh ra [19].
Phàm chất béo,
khiến người sinh chứng nóäi nhiệt, vị ngọt, khiến người sinh chứng trung mãn.
Đến khi khí đó ràn lên, sẽ chuyển thành chứng Tiêu khát (vì nóäi nhiệt). Nên
dùng cỏ Lan để điều trị, vì nó bài trừ được khí trầm uất (uất tích lâu ở trong)
[20].
Có người mắc
chứng, trong miệng có vị đắng, lấy huyệt tuyền mà miệng đắng... Tên là bệnh gì?
Và vì sao mắc bệnh ấy? [21]
Bệnh đó tên là
Đởm đản. Can là một cơ quan có cái nhiệm vụ như vị Tướng quân, nhưng phải thủ
quyết ở Đởm, yết hầu, cuống họng là “ngoại sứ” của Can, mà cùng liên lạc với
Đởm [22].
Bệnh nhân tất
thường có việc mưu lự không quyết, khiến Đởm hư, khi ràn lên, thành chứng đắng
miệng. Nên thích ở Đởm mạc Du. Về phương pháp điều trị, đã có ở thiên “Aâm
dương thập nhị quan tương sử”
(Aùn: Thiên này,
ở Tố vấn là Linh Khu đều không có. Có lẽ do một cổ kinh nào khác mà giờ không
còn) [23].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc bệnh
“long”, ngày đi tiểu tới vài mươi lần... Như thế là thuộc về bất túc, mình nóng
như than, cổ với ức như bị ngăn cách, mạch ở Nhân nghinh táo thịnh, thở suyễn
khi nghịch... Như thế là thuộc về hữu dư. Chẩn đến mạch ở Thái âm thời lại “vi,
tế” như sợi tóc... Như thế lại là bất túc. Vậy bệnh đó ở đâu và tên là gì? [24]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh tại Thái âm,
mà thịnh ở Vị, kiêm cả ở Phế, tên là Quyết. Chết không chữa được (1) . Đó tức
là thuộc về chứng “Ngũ hữu dư, nhị bất túc” [25].
Ngũ hữu dư, nhị
bất túc là gì? [26]
Năm bệnh khí
thuộc hữu dư, và hai bệnh khí thuộc bất túc (2). Giờ bên ngoài đã có năm hữu
dư, bên trong lại có hai bất túc, biểu lý âm dương đều đã đoạn tuyệt, còn sống
làm sao được [27].
Hoàng Đế hỏi:
Người mới lọt
lòng đã mắc tật điên, vậy tân bệnh là gì? Và vì sao mà mắc? [28]
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó gọi là Thai
bệnh. Nguyên nhân do từ khí còn nằm trong bụng mẹ, người mẹ bị điều gì quá sợ
hãi khí ngược lên mà không giáng xuống được, tinh với khí dồn ở làm một, nên
đứa con mới phát chứng điên như vậy (1) [29] .
Hoàng Đế hỏi:
Có người mặt “ụ”
ra như bị thủy thũng, thiết vào mạch thời Đại và Khẩn. Khắp mình không đau đớn,
mình không gầy đi, nhưng không ăn được, và chỉ ăn rất ít. Đó là bệnh gì? [30]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh đó phát sinh
tại Thận, gọi là Tận phong. Người mắc Thận phong, không ăn được, hay kinh (sợ),
sau khi khỏi kinh, nếu Tâm khí rã rời thời sẽ chết (1) [31].
THIÊN 48 : ĐẠI KỲ LUẬN
Phàm Can khí mãn,
Thận khí mãn, Phế khí mãn. Mạch tất sẽ đều “thực”, và thành chứng thũng (tức
phù thũng, bệnh ở bộ phân da) [1].
Phế bị nghẽn,
suyễn mà hai bên sườn (khư) mãn, nằm thời kinh, không tiểu tiện được [2].
Thận bị nghẽn, từ
thiếu phúc đến dưới chân đều mãn (đầy) bộng chân có bên nhỏ bên to, nếu bệnh
biến sẽ thành thiên khô [3].
Tâm mạch mãn và
đại, phát thành chứng giản khiết và Cân loan (co gân) [9].
Can mạch tiểu và
cấp, phát thành chứng giản khiết và Cân loan [10].
Can mạch bỗng
dưng bạo loạn, tất do có sự kinh hãi. Nếu mạc không đến mà ấm (như câm không
nói ra được), không cần chữa, sẽ tự khỏi (khi nào mạch đến sẽ nói được) [11].
Thận mạch tiểu và
cấp, Cân mạch tiểu và cấp, Tâm mạch tiểu và cấp... [12]
Không bựt lên
tay, đều là chứng giả (Một chứng thuộc loại tích tụ) [13].
Mạch của Can,
Thận đều Trầm, là chứng thạch thủy, nếu đều phù, sẽ là chứng phong thủy, nếu
đều hư, sẽ chết, nếu đều tiểu và huyền, sẽ phát kinh (đoạn này nói về mạch của
Can bới Thận giống nhau, thời bệnh cũng không khác) [14].
Mạch của Thận
Đại, Cấp và Trầm, mạch của Can Đại, Cấp và Trầm... Đều thuộc bệnh Sán (Sán tức
là Sán khi, đau rút ở bụng dưới, khác với “Sán” ta thường dùng [15].
Mạch của Tâm bựt
lên tay, Đoạt và Cấp, là có chứng Tâm sán, mạch của Phế Trầm và bựt lên tay là
có chứng Phế sán [16].
Tam Dương mạch
cấp là có chứng giả, Tam Aâm mạch cấp là có chứng Sán [17].
Nhị Aâm mạch cấp
là chứng giản quyết. Nhị Dương mạch cấp là có chứng Kinh [18].
Mạch của Tỳ bên
ngoài hiện ra Cổ (cũng như bác, bựt lên tay) mà bên trong Trầm, là chứng Trường
tiết, lâu sẽ tự khỏi [19].
Mạch của Can Tiểu
và Hoãn, chứng Trường tiết, dễ trị (Hoãn là nhiệt nhiều, Tiểu là huyết khí đều
ít. Đây, vì cái khí Dương nhiệt, bách vào Aâm tàng, khiến huyết khí của Can
tàng tiết xuống mà thành hư, nên mạch Tiểu và Hoãn. Nhưng Can vốn chủ về tàng
huyết, nên dù bị cái khí dương nhiệt, cũng còn dễ chữa) [20].
Mạch của Thận
Tiểu, bựt lên tay mà lại Trầm, là chứng Trường tiết và ra huyết. Nếu huyết ôn
(ấm) mà mình nóng, sẽ chết [21].
Tâm và Can mắc
chứng Trường tiết cũng ra huyết nhưng nếu hai Tàng cùng mắc bệnh, còn có thể
chữa. Phàm mạch Trầm, Tiểu, Sắc là chứng Trường tiết, nếu mình nóng là chứng
nguy, nóng luôn 7 ngày sẽ chết [22].
Mạch của Vị Trầm
mà cổ, lại Sắc, nếu đẩy ra ngoài... Mạch của Tâm tiểu kiên và Cấp... Đều mắc
chứng “Cách” và thiên khô. Con trai sẽ bị ở bên tả, con gái ở bên hữu. Nếu
không “ấm” lưỡi uốn đi uốn lại được, có thể chữa, ba mươi ngày sẽ khỏi, nếu
tuổi chưa đầy hai mươi, thời ba năm sẽ chết (2) [23].
Mạch đến mà Bác,
huyết nục, mình lại nóng, sẽ chết, nếu nục mà mạch Câu và Phù, thời là thường
mạch, không ngại (1) [24] .
Mạch đến Hoạt Cấp
như Suyễn, gọi là Bạo quyết, chứng này sẽ hôn mê không biết gì [25].
Mạch đến mà Sác,
khiến người bạo kinh, ba ngày sẽ khỏi (1) [26].
Mạch đến “Phù
hợp” (như làn sóng nóåi hợp lại nhau, hình dung sự vô căn), Phù hợp như đếm,
mỗi tức từ 10 chí trở lên, đó là Kinh khí bất túc. Nếu “vi hiện” (mới hơi thấy)
mạch ấy, trong vòng 9, 10 ngày sẽ chết [27].
Mạch đến “bừng
bừng” như lửa cháy, đó là Tâm khí bị đoạt. Tới mùa cỏ khô (tức mùa Thu) sẽ chết
[28].
Mạch đến lơ lửng
như chiếc lá rơi, đó là Can khí đã hư. Tới mùa lá rụng (tức mùa Thu) sẽ chết
[29].
Mạch đến vội vàng
như “tỉnh khách” (khách đến hỏi thăm, tới cửa đi ngay), luồng mạch đầy lên tay
mà cổ, đó là Thận khí bất túc, tới mùa Táo có hoa (tức Trường hạ) sẽ chết [30].
Mạch đến dấp dính
như “Nê hoàn” (viên bùn, tròn mà không hoạt), đó là Vị tinh bất túc. Tới khi lá
Du giáp rụng (Xuân) sẽ chết [31].
Mạch đến vướng
mắc như “Hoàn cách”, đó là Đởm khí bất túc. Tới mùa chín (cuối Thu) sẽ chết (1)
[32].
Mạch đến như nắn
giây tơ, đó là Bào tinh bất túc. Bệnh nhân hay nói. Tới mùa sương xuống sẽ chết
[33].
Mạch đến như Giải
tật (ép sơn, chảy tung toé ra cả xung quanh)... Nếu “vị hiện” ba mươi ngày sẽ
chết. (1) [34].
Mạch đến như Dũng
toán (nước suối vọt lên). Phù mà cổ ở trong da... Đó là Thái dương khí bất túc,
tiêu bản đều hư. Tới mùa rau Cửu có hoa (rau hẹ, tức mùa Xuân), sẽ chết [35].
Mạch đến như Đồi
thó (đất lở, trông vẫn có, động đến thời lở xuống), án vào không được. Đó là cơ
khí bất túc, mặt hiện sắc đen, tời mùa giây cát tốt (Xuân), sẽ chết [36].
Mạch đến như
Huyền ung (tức hội áp, một cúc thịt bạu xuống giữa cuống họng. Nó tròn mà mềm)
ấn tay vào tẹp xuống mà lại “phù” đại “ngay”, đó là Du khí của mười hai kinh
bất túc. Tới mùa nước đóng thành băng (cuối đông), sẽ chết [37].
Mạch đến như Yến
đao (dao để ngửa lưỡi), nó là một mạch tượng để tay nhẹ thời Tiểu và Cấp, án
hơi nặng thời lai Kiên, Đại, và cấp... Đó là do khí uất, nhiệt của năm Tàng,
dồn cả vào Thận. Bệnh nhân sẽ không thể ngồi lên được. Tới tiết Lập xuân sẽ
chết [38].
Mạch đến như hoàn
hoạt (trơn như viên đạn tròn) không dính tay, án vào không được (nó sẽ buột
đi). Đó là khí của Đại trường bất túc. Tới mùa Tảo hiệp nảy ra (Hạ) sẽ chết
[39].
Mạch đến nhẹ
nhàng như đóa hoa mới nở. Khiến người hay sợ, nằm ngồi không yên, đi ứng thường
nghe ngóng. Đó là tiều trường khí bất túc. Tới mùa cuối Thu sẽ chết (1) [40].
THIÊN 49 : MẠCH GIẢI
Ở Thái Dương mà
“nói là”: Yêu thũng, mông đau, là vì tháng giêng, kiến Dần, Dần thuộc Thái
dương. Tháng giêng, Dương ra ở trên, nhưng Aâm vẫn còn thịnh. Dương chưa có thể
theo đúng thứ tự đề ra. Do đó, sinh ra chứng yêu thũng và mông (tức hao mông)
đau [1].
Bệnh thiên hư mà
đi (đi lệch), do tháng giêng dương khí đã giải đồng, địa khí tiết ra được rồi.
Vậy mà nói là “thiên hử”, là vì khí mùa Đông rét, khí bất túc nên sinh chứng
như vậy [2].
Nói là: “Cổ cứng,
đau rút xuống lương...” là vì khí của Thái dương dẫn lên quá mạnh, rồi ngẽn lại
ở đó [3].
Nói là: “Nếu quá
lắm sẽ phát cuồng, phát điên... “Đó là vì Dương khí bốc lên cả trên, mà Aâm khí
đành trơ trọi ở dưới. Dưới hư trên thực, nên mới sinh ra cuồng và điên, như vậy
[4].
Nói là: “Mạch phù
sẽ phát điếc...” Đều chỉ về bệnh phát sinh tại khí [5].
Nói là: “Dương
khí vào trong sẽ thành ấm...:Đó là nói Dương khí đã suy, mà âm cũng hư, nên
thành chứng trạng như vậy [6].
Phàm những chứng
bị “nóäi đoạt” mà quyết, gây nên Aám và Phi (tứ chi rã rời) đều bởi Thận hư.
Khí của Thiếu âm Thận không dẫn đến, cũng gây nên chứng quyết [7].
Ở Thiếu dương mà
nói là “Tâm, Hiếp Thống”... Đó là nơi khí của Thiếu dương thịnh. Sở dĩ thịnh vì
nó là Biểu của Tâm. Tới tháng chín, Dương khí hết mà âm khí thịnh, nên phát
sinh là vì âm khí chủ về tàng vật. Vật đã tàng thời không thể động được, nên
mới không thể trở mình [8].
Nói là: “Quá lắm
thời chỉ muốn chạy nhảy...”. Đó là vì: Về tháng chín, muôn vật đều hư, cỏ cây rụng
héo, thời khí ở con người cũng lánh Dương mà tới Aâm. Duy cái khí của Thiếu
dương đương thịnh, dù có lọt vào ở bên dưới, nhưng vẫn có ý muốn bốc mạnh trở
lên, nên mới thành chứng trạng như vậy [9].
Ở Dương Minh mà
nói là “Rờn rợn, run rét...” Bởi Dương minh thuộc Ngọ, Tháng năm, là tháng một
Aâm ở trong thịnh dương. Dương đương thịnh mà Aâm xen vào, nên mới thành chứng
rờn rợn, run rét [10].
Nói là: “Bộng
chân thũng, không tự do lại được”, do là vì tháng năm, một Aâm đã phát sinh ở
trong thịnh dương mà Dương cũng bắt đầu suy từ đó. Nhưng bởi một Aám mới sinh
cùng Dương xung đột, gây thành chứng hậu như vậy [11].
Nói là: Thượng
suyễn mà thành Thủy thũng... “Đó là vì Aâm khí đã hạ giáng lại rấn lên, lên
cùng với tà khi ký túc ở khoảng Tàng, Phủ, vì vậy nên Thủy thũng [12].
Nói là: “Hung
thống và thiểu khí...” Đó là vì thủy khí ký túc ở Tàng, Phủ, Thủy thuộc Aâm
khí, Aâm khí xen vào trong, nên mới thành hung thống và thiếu khí [13].
Nói là: “Quá lắm
thời quyết, ghét người với hỏa, nghe tiếng “gõ” (mộc) thời rùng mình mà sợ..”
Đó là vì Aâm khí với Dương khí cùng xung đột lẫn nhau, Thủy với Hỏa cùng ghét,
nên mới rùng mình mà sợ [14].
Nói là: “Muốn
đóng kín cửa mà ở một mình”. Đó là vì Aâm Dương cùng xung đột nhau. Dương đã
hết mà Aâm lại thịnh, nên mới muốn đóng cửa mà ở một mình [15].
Nói là: “Bệnh đến
thời muốn lên cao mà hát, cởi bỏ áo mà chạy...” đó là vì âm dương lại tranh
giành nhau rồi dồn cả ra dương phận ở bên ngoài, nên mới gây thành chứng trạng
như vậy [16].
Nói là: “Ký túc ở
Tôn lạc, thời sinh ra nhực đầu, ty nục, và phúc thũng...” Đó là vị khí của
Dương minh dồn lên trên. Trên tức là thuộc về Tôn lạc của Thái âm. Nên mới gây
thành các chứng trạng như vậy [17].
Ở Thái âm, nói là
“sẽ phát bệnh trướng”, vì Thái âm thuộc Tý, tháng mười một, khi của muôn vật
đều thâu tàng vào trong, nên phát bệnh trướng [18].
Nói là: “chạy lên
tâm thành chứng ợ...” vì âm khi thịnh dồn lên trên Dương minh “lạc” của Dương
minh lạc thuộc Tâm, nên thành chứng ơ. [19]
Nói là “Aên vào
thời ọe”, là vì vật chứa ở bên trong đầy ràn quá mà sinh ra [20].
Nói là: “Nếu được
đại tiện hay trung tiện thời sẽ dễ chịu...” Vì tới tháng mười hai, âm khí suy ở
dưới Dương khí muốn tiết ra đằng trên, nên dưới cũng có tiết được ra mới dễ
chịu [21].
Ở Thiếu âm, nó là
“sẽ phát yêu thống...” Vì thiếu âm tức là Thận. Về tháng mười, dương khí đều bị
thương, nên mới yêu thống [22].
Nói là: Aáu,
khái, thượng khí và suyễn” là vì Aâm khí ở dưới dương khí ở trên. Dương khí phù
lên trên, không nương tựa vào đâu, nên phát chứng như vậy [23].
Nói là: “Mọi việc
đều không thể làm, không thể đứng lâu, ngồi lâu, đứng lên thời mắt tờ mờ trông
không tỏ...” Đó là vì muôn vật âm dương không định, chưa có chủ, Khí Thu mới
đến, sương Thu mới xuống, muôn vật túc sái, âm dương bị đoạt, nên mới thành các
chứng như vậy [24].
Nói là: “Ít khí
và hay nóä...” Đó là vì khí của Thiếu dương không thông đạt ra bên ngoài, do đó
dương khi không tiết ra được, Can khí cũng vì vậy mà không được thư xướng nên
mới sinh ra hay nóä Chứng đó gọi là Tiên quyết [25].
Nói là: “Thường
sợ sệt như sắp bị người bắt”. Đó là vì: Dương khí bên trong ít đi, âm khí bên
ngoài lọt vào, hai khi cùng xung đột, nên mới thường sợ sệt [26].
Nói là: “Ngửi mùi
thức ăn thì ghét...” Đó là vì Vị không có khí nên thành như vậy [27].
Nói là: Sắc mặt
đen xạm” đó là vì khí bị đoạt ở bên trong, nên huyết sắc ở bên ngoài cũng biết
đi mất [28].
Nói là: “Khái
thời lại có huyết...” Đó là vì Dương mạch bị thương. Dương khí chưa thịnh ở bộ
phận trên mà mạch lại mãn. Mãn thời khái, mà thường khi lại ra cả đằng mũi
[29].
Ở quyết âm, mà
nói là: “phát các chứng bệnh điên, sán, đàn bà thũng ở Thiếu phúc v.v... Đó là
vì quyết -âm thuộc Thìn. Tháng ba, ân tà sinh ra ở trong Dương, nên mới thành
chứng điên sán và thũng ở Thiếu phúc [30].
Nói là: “Sinh ra
các chứng đồi, long, sán...” (đều là tên vác chứng khó tiểu tiện). Là vì: về
tháng đó âm khí thịnh, khiến cho mạch phát trướng không thông, nên sinh chứng
như vậy [31].
Nói là: Quá lắm
thời “ách can” và “nhiệt trung...”là vì âm dương cùng xung đột nhau, sinh ra
nhiệt. Vì sinh ra nhiệt nên mới thành chứng nhiệt trung và ách can [32].
THIÊN 50 : THÍCH YÊU LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết phần
cốt yếu của phép thích [1].
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh có phù trầm,
thích có nông sâu. Phải cho đúng nhẽ, đừng có trái đạo. Thái quá thời nóäi
thương. Bất cập thời gây sự đừng có trái đạo. Thái quá thời nội thương. Bất cập
thời gây sự nghẽn tắc ở ngoài, tà khí sẽ do đó mà lấn theo. Sâu nông không
đúng, lại gây vạ lớn. Bên trong phạm vào 5 Tàng, rồi sau sinh bệnh lớn [2].
Cho nên nói: Có
thứ bệnh ở hào mao (trong lòng), tấu lý, có thứ bệnh ở bì phu, có thứ bệnh ở cơ
nhục, có thứ bệnh ở mạch có thứ bệnh ở Cân, có thứ bệnh ở cốt, có thứ bệnh ở
Tủy [3].
Thích ở bì đừng
làm thương đến nhục. Nếu thương đến nhục thời bên trong sẽ động vào Tý. Động
vào Tý thời qua bảy mươi hai ngày, về bốn tháng cuối mùa, sẽ sinh ra bệnh phúc
trướng, phiền, không muốn ăn (1) [4].
Thích ở nhục đừng
làm thương đến mạch. Nếu thương đến mạch thời trong sẽ động vào Tâm. Động vào
Tâm thời mùa Hạ phát bệnh Tâm thống [5].
Thích ở mạch đừng
làm thương đến Cân. Nếu thương đến Cân thời bên trong sẽ động vào Can. Động vào
Can thời mùa Xuân sẽ phát bệnh nhiệt, và gân lỏng [6].
Thích ở cân đừng
làm thương đến cốt. Nếu thương đến Cốt, thời bên trong sẽ động đến Thận. Động
đến Thận thời mùa Đông sẽ sinh bệnh trướng và yêu thống [7].
Thích ở cốt đừng
làm thương đến tủy. Nếu thương đến Tủy thời tiêu thước và đau nhức trong ống
chân... Thân thể cũng rã rời mỏi mệt [8].
Không có nhận xét nào: