THIÊN 51 : THÍCH TỄ LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết rõ
sự nhất định của phép thích nên nóâng, nên sâu thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thích ở cốt, đừng
làm thương đến Cân, thích ở Cân đừng làm thương đến nhục, thích ở nhục, đừng
làm thương đến mạch, thích ở mạch đừng làm thương đến bì, Thích ở bì, đừng làm
thương đến nhục, thích ở nhục đừng làm thương đến Cân, thích ở Cân đừng làm
thương đến Cốt [2].
Xin cho biết rõ
[3]
Thích ở cốt đừng
làm thương đến Cân...là nói nếu chậm vừa đến nhục đã thôi ngay. mà chưa vào đến
Cân “Thích ở nhục đừng làm thương đến mạch” là nói nếu chậm vừa đếm mạch đã
thôi, mà chưa vào đến nhục. “Thích ở mạch đừng làm thương đến bì” là nói: nếu
châm vừa đến bì đã thôi, mà chưa vào đến mạch [4].
Như nói: ‘thích ở
bì đừng làm thương đến nhục, là bệnh ở trong bì, châm cũng chỉ để vào đến trong
bì, đừng phạm vào đến nhục. Nói: “thích ở nhục đừng làm thương đến Cân... là vì
hễ quá nhục thời sẽ tới cân ngay. Nói thích ở cân đừng làm thương đến cốt...”
là vì hễ quá cân thời sẽ tới cốt ngay. Đó tức là trái.
(Đoạn trên này
nói về phép thích, cốt ở chừng mực không nên bất cập hoặc thái quá) [5].
Mạch đạt mà huyết
ít, là do mạch có phong khí, nước uống vào ít, huyết không có sự trợ ích [6].
Phàm thực, là do
ở khí hút vào, hư là do ở khí tiết ra. Khí thực là nhiệt, khí hư là hàn [7].
Nếu dùng châm để
tả thực, thời tay tả làm rộng ở huyệt vừa châm ra. Nếu dùng châm để bổ hư, thời
tay tả làm vít ở huyệt vừa châm lại [8].
Thiên 52 : THÍCH CẤM LUẬN
Hoàng Đế hỏi: Ta
muốn nghe về những chỗ cấm châm.
Kỳ Bá đáp: Ngũ
tạng đều có những chỗ yếu hại, cần phải chú ý. Can khí thường đi xuống, tác
dụng ở phái bên phải, Tâm thì điều tiết âm khí ở ngoài biểu, Thận quản lý phần
âm khí ở nội bộ, Tỳ có công năng chuyển vận tinh hoa của thuỷ cốc để nuôi dưỡng
cho các tạng, Vị là cơ quan dung nạp và tiêu hoá thức ăn. Phía trên cách mạc có
2 tạng là Tâm Phế để duy trì sinh mệnh. cạnh đốt xương thứ 7 ở phía trong có
Tâm bào lạc, những chỗ đó khi chữa bằng châm cần phải chú ý tránh. nếu thương
tổn đến những chỗ trọng yếu đó thì sẽ nguy hiểm. Cho nên nói, theo được sự cấm
kỵ đó thì không gây ra tai hoạ, nếu trái lại thì sẽ gặp tai hoạ.
“Hoàng đế hỏi:
Xin cho biết về phép thích, có những cấm k gì ? Kỳ Bá trả lời:.... Thích trúng
Tâm, 1 ngày chết, lúc mới phát động là chứng ợ. Thích trúng Can 5 ngày chết,
lúc mới phát động là nói luôn miệng. Thích trúng Thận 6 ngày chết, lúc mới phát
là chứng hắt hơi, Thích trúng Phế 3 ngày chết, lúc mới phát là chứng ho. Thích
trúng Tỳ, 10 ngày chết, lúc mới phát là chứng nuốt nước miếng. Thích trúng Đởm
1 ngày rưỡi chết, lúc mới phát là chứng nôn (ẩu). Thích trên xương phụ, trúng
vào đại mạch, huyết ra không dứt sẽ chết. Châm ở mặt, nếu trúng Lưu mạch, sẽ
làm mắt mờ. Thích vào đầu, trúng vào não bộ, chạm vào não sẽ chết. Kinh mạch ở
dưới ở dưới lưỡi nếu châm sâu quá, huyết ra nhiều, sẽ bị câm. Châm lầm đường
lạc mạch phân bố ở dưới chân, huyết đọng lại ở bên trong làm chỗ đó sưng lên.
Châm huyệt Uỷ Trung sâu quá, trúng đại mạch, sẽ ngất, sắc mặt nhợt nhạt. Châm ở
Khí nhai, trúng mạch, huyết dịch sẽ tụ lại bên trong, làm cho vùng háng sưng
trướng lên. Châm ở khe cột sống, trúng tủy sẽ thành chứng gù lưng. Thích ở vú,
trúng Nhũ phòng sẽ sưng rồi loét nát. Thích ở giữa Khuyết Bồn quá sâu đến nỗi
Phế khí tiết ra thành chứng suyễn, ho. Thích huyệt Ngư Tế ở tay, mạch hãm vào
trong sẽ thành thũng.
Không được châm
người bệnh mới uống rượu say, nếu châm sẽ làm cho khí huyết rối loạn. không
châm khi người bệnh còn đang tức giận, nếu châm sẽ làm cho khí nghịch lên.
Ngoài ra, nếu người bệnh sau khi lao dodọng quá nhọc mệt, sau khi ăn no hoặc
đang đói, đang khát nước quá hoặc người bệnh mới bị kinh sợ nhiều thì đều không
nên châm. Châm các huyệt ở mé trong đùi, nếu lầm hại đến đại mạch, máu sẽ chảy
ra mãi không cầm thì sẽ chết. Châm huyệt Khách chủ nhân sâu quá làm hại đến lạc
mạch sẽ sinh ra mủ trong tai làm cho tai điéc. Châm ở khớp gối làm cho chảy dịch
ra thì sẽ què chân. Châm kinh thù Rhaí âm, nếu hại đến huyết mạch, ra nhiều
huyết quá thì sẽ chết ngay. Châm kinh túc Thiếu âm làm cho Thận khí càng hư tổn
mà ra huyết thì sinh chứng lưỡi khó nói.
Thiên 53 : THÍCH CHÍ LUẬN
Hoàng Đế hỏi: Ta
muốn biết những điều cốt yếu của Hư Thực.
Kỳ Bá đáp: Khí
thực thì hình thực, khí hư thì hình hư, đó là lẽ thường tình, nếu nghịch lại
thì bị bệnh.
Cốc thịnh thì khí
thịnh, Cốc hư thì khí hư, đó là lẽ thường, nếu nghịch lại thì bị bệnh.
Mạch thực thì
huyết thực, mạch hư thì huyết hư, đó là bình thường, nếu mghịch lại thì bị
bệnh.
Hoàng Đế hỏi: Thế
nào là nghịch lại?
Kỳ bá đáp: Khí hư
thânh nhiệt, đó là nghịch. Cốc (thức ăn) nhập vào quá nhiều mà khí ít, đó là
nghịch. Mạch thịnh mà huyết ít, đó là nghịch. Mạch nhỏ mà huyết nhiều, đó là
nghịch Khí thịnh mà thân nhiệt là thương hàn; Khí hư mà thân nhiệt là thương
thử. Thức ăn vào nhiều mà khí ít thì sẽ bị huyết thoát, thấp dồn xuống dưới.
Thức ăn vào ít mà khí nhiều là tà khí ở tại Vị và Phế.
Mạch nhỏ mà huyết
nhiều thì uống vào sẽ sinh nhiệt. Mạch mạnh mà huyết ít đó là mạch có phong
khí, thuỷ tương không nhập vào được.
THIÊN 54 : CHÂM GIẢI
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết phép
dùng Cửu châm (chín thứ châm) và thế nào là hư thực? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
“Khí hư thì bổ
cho thực”, tức là đợi cho khi nào khí đến dưới châm đã nóng mới thôi, vì khí
thực thời nhiệt. “Khí mãn thời làm cho tiết”, tức là đợi cho khi nào khí đến
dươi châm lạnh mới thôi. Vì khí hư thời hàn. “Uất tích trời trừ đi” tức là dùng
châm cho tiết bỏ ác huyết [2].
“Tà thắng thời
làm cho nó hư đi”, vậy khí rút châm ra đừng bỏ vết châm lại để cho tà khí cứ
theo đó mà tiết ra [3].
Như nói: “thong
thả mà nhanh thời sẽ thực”, tức là lúc rút châm thời thong thả, nhưng sau khi
châm rút ra hết rồi, kịp vít ngay vết châm lại. Như nói: “nhanh mà thong thả
thời sẽ hư”, tức là rút châm ra nhanh mà thong thả mới lấy tay vít chỗ châm lại
[4].
Nói “thực với hư”
tức là nhận xem khi đến ở dưới châm lạnh hay ấm thời biết là khí nhiều hay ít
[5].
Khí ở con người
hư hay thực, như có như không, phải yên tĩnh để nhật xét, nếu vội vàng không
thể sao biết được [6].
Bệnh có gốc ngọn,
trị bệnh cũng phải có gốc ngọn. Có phân biệt được gốc ngọn, mới mong trị được
bệnh [7].
Hư thời làm cho
thực, thực thời làm cho hư, về phép bổ tả, phải giữ cho đúng [8].
Cái cốt yếu của
sự hư thực, đối với phép dùng cửa châm, rất là tinh vi huyền ảo, nhưng cũng
theo cái lẽ đương nhiên thôi [9].
Trong khí hoặc bổ
hoặc tả, thời sự khai hạp của khí cũng phản ứng theo (tức như trên đã nói)
[10].
Phàm chín thứ
châm, danh và hình đều không giống nhau, có thể mới đầy đủ được phương pháp bổ
và tả [11].
Thích vào thực,
muốn hư, hãy lưu châm, chờ âm khí đến dưới châm nhiều rồi, sẽ rút châm [12].
Thích vào hư,
muốn cho thực, chờ dương khí đến dưới châm nhiều rồi, sẽ rút châm [13].
Như nói: “kinh
khí đã đến, cần giữ đừng lỡ...” tức là đừng để cho khí lại thay đổi trái khác,
mới mong khỏi bệnh [14].
Như nói: “Sâu
nóâng ở chí...” tức là đã biết rõ bệnh ở trong hay ngoài, để dùng châm hoặc sâu
hoặc nóng cho đúng. Như nói: “xa gần như một”, tức là lúc thích sâu hay nóâng
phải có nhất định [15].
Như nói: “Tay như
nắm con hổ, tức là nói dùng châm phải vững vàng, không nên hấp tấp) [16].
Như nói: “Thần
không thể nào mọi vật...” tức là bảo người dùng châm phải yên tĩnh để xem xét
bệnh nhân, không nên để tâm vào việc khác [17].
Vậy lúc cầm châm
để châm cho bệnh nhân, phải đoan trang yên tĩnh, dùng mắt của mình trong vào
mắt của bệnh nhân, khiến bệnh nhân chú ý vào mình, nhờ ở đó mà khí lưu hành
được dễ dãi [18].
Bì (da) của
người, ứng với trời. Nhục của người ứng với đất, mạch của người ứng với người.
Cân của người ứng với thì (mùa) tiếng của người ứng với âm, dương của người hợp
với khí và ứng với luật, răng và mặt, mắt của người ứng với tinh (sao), khí ra
vào của người ứng với phong (gió), Chín khiếu và ba trăm sáu mươi nhăm lạc, ưng
với Dã (khu vực) [19].
Cho nên châm số 1
để châm bì, châm số 2 để châm nhục, châm số 3 để châm mạch, châm số 4 để châm
cân, châm số 5 để châm cốt, châm số 6 để điều âm dương , châm số 7 để ích tinh,
châm số 8 để trừ phong, châm số 9 để thông chín khiếu, và trừ 365 khí ở các
tiết. Vì vậy, nên nói các châm đó đều có “sở chủ” [20].
Tâm, Ý của con
người ứng với tám gió (gió của 8 phương) khí của con người ứng với trời, tóc,
răng, tai, mắt và ngũ thanh của con người ứng với 5 âm, 6 luật, âm, dương,
mạch, và huyết khí của con người, ứng với đất, can và mục của con người ứng với
số cửu (tức chín). [21]
Can khai khiếu
lên mắt, nên hợp gọi là “can mục”. Can thuộc mộc, mộc sinh ra bởi số 3. Ba nhân
với ba tức là số chín) [22].
THIÊN 55 : TRƯỜNG THÍCH TIẾT LUẬN
Thích gia không
cần phải chẩn, chỉ nghe bệnh nhân nói, cũng có thể thấu được bệnh tình [1].
Bệnh tại đầu,
nhức đầu, dùng “tàng châm” để thích. Thích tới cốt, bệnh khỏi, sẽ thôi. Phàm
thích, đừng làm thương đến cốt nhục và bì. Bì là con đường để châm [2].
Phàm trị về hàn
nhiệt, phải dùng âm thích. Phương pháp âm thích, thích vào chính huyệt một
châm, thích vào bàng huyệt 4 châm [3].
Nếu bệnh nặng và
lâu, nên điều trị Đại tàng. Phàm thích Đại tàng, nên thích ở lưng mà cho gần
tới Tàng. Bởi dư huyệt của Tàng ở lưng [4].
Thích ở Du mà gần
tới Tàng, thời tàng khí với châm sẽ hợp nhau, mà chứng hàn nhiệt ở trong phúc
sẽ bài trừ hết [5].
Nhưng cái cốt yếu
của phép thích, không nên để cho huyết ra quá nhiều, chỉ phát châm nông cho
huyết ra ít thôi [6].
Trị chứng ung
thũng (mụn, sưng, nát), nên thích ngay trên Ung. Trong xem ung lớn hay nhỏ, để
định sự thích sâu hay nông [7].
Thích ung lớn,
nên cho ra nhiều huyết, thích ung nhỏ, nên để nông châm [8].
Phải giữ châm cho
thật ngay, đừng để phạm đến thịt lành. Thích vừa đúng chỗ có máu mủ thì thôi
[9].
Bệnh tại Thiếu
phúc, có vật uất tích. Nhận ở Thiếu phúc, chỗ nào da “cồn dầy” lên thời thích.
Lại thích ở hai bên đốt xương, Tân du sống thứ tư, thích ở hai bên yêu cốt, hai
bên hiếp lặc... Để dẫn cho nhiệt khí ở trong phúc do dưới châm mà tiết ra[10].
Bệnh tại Thiếu
phúc, phúc thống không đại, tiểu tiện được, gọi là Sán, thích ở Thiếu phúc, hai
đùi, yêu và khỏa cốt... Thích để mũi châm lâu sẽ rút ra, nhiệt khí tiết ra hết,
bệnh sẽ khỏi [11].
Bệnh tại cân, cân
rút, khớp đau, không thể đi được, gọi là Cân tý. Vì thế phải thích ở trên cân,
thích ở khoảng phận nhục, nhưng không được để trúng vào xương. Cân đã thư, bệnh
sẽ hết, cân đã nóng, bệnh sẽ khỏi, và thôi không phải nữa [12].
Bệnh tại cơ phụ,
cơ phụ đều đau, gọi là Cơ tý. Bệnh này gây nên bởi hàn thấp, phải thích ở đại
phận nhục, tiểu phận nhục [13].
Châm nhiều huyệt
và sâu, để cho khí nhiệt dẫn đến. Nhưng đừng làm thương đến cân cốt [14].
Nếu thương đến
cân cốt, sẽ biến thành chứng nan hoán (tay chân rã rời bất toại bên tả, hoặc
bên hữu) chờ bao giờ các phận nhục nhiệt đều, bệnh sẽ khỏi, và thôi không phải
châm [15].
Bệnh tại cốt, cốt
nặng không thể cử động được. Cốt tủy toan thống, do hàn khí phạm vào, gọi là
Cốt tý. Phải thích sâu, đừng làm thương đến mạch và nhục. Vì con đường của nó
phải đi qua Đại, tiểu phận nhục. Khi nào trong cốt nóng đều, bệnh khỏi, sẽ thôi
không phải châm [16].
Có chứng bệnh,
lúc mới phát, thường mỗi năm phát sinh một lần, nếu không chữa, dần dần đến mỗi
tháng một lần, hoặc ba bốn lần gọi là bệnh... Điên. Thích ở các phận nhục, các
mạnh. Nếu không có chứng hàn, thời dùng châm để làm cho điều hòa, bệnh khỏi sẽ
thôi không phải châm [17].
Bệnh thuộc về
phong, vừa hàn, vừa nhiệt, nhiệt hãn toát ra, nhiều lần. Trước hãy thích vào
các phận lý, lạc, mạch. Nếu hãn vẫn ra, mà vẫn cứ hàn vừa nhiệt, thời ba ngày
thích một lần, thích tới trăm ngày thì khỏi bệnh [18].
Bệnh đại phong
(tức lệ phong), các khớp xương nặng nề, râu. Thích ở cơ nhục, để cho hãn ra,
một trăm ngày thích ở cốt tuỷ, để cho hãn ra, một trăm ngày gọi là chứng Đại
phong khoảng hai trăm ngày, râu và lông mày mọc lại, thì không châm nữa [19].
THIÊN 56 :BÌ BỘ LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Tôi nghe bì (da)
có phận bộ, mạch có kinh kỷ, cân có kết lạc, cốt có độ lượng... Chủ về bệnh đều
có khác nhau. Vậy tả, hữu, trên, dưới và Aâm, Dương ở đâu, sinh ra bệnh trước
sau thế nào, xin cho biết rõ [1].
Kỳ Bá thưa rằng:
Muốn biết bì bộ,
phải dùng Kinh mạch để ghi nhớ. Các Kinh khác đều như vậy [2].
Dương Lạc của
Dương Minh, gọi là Hai phi. Trên dưới (tức Thủ, Túc Dương Minh) cùng một phép
xét nhận. Hễ thấy trong bộ phận, có “phù lạc” hiện lên, tức là Lạc của Dương
Minh. Trông xem sắc của nó, nếu xanh nhiều là “thống”, đen nhiều là “tý” hoàng
và xích là nhiệt, trắng nhiều là hàn. Nếu năm sắc đều hiện làvừa hàn vừa nhiệt.
Ở Lạc mà thịnh (nhiều), sẽ dẫn vào Kinh (1). Dương chủ về bệnh ở ngoài, Aâm chủ
về bệnh ở trong. (2) [3].
Dương lạc của
Thiếu dương, gọi là Khu trì. Trên dưới cùng một phương pháp. Hễ thấy trong bộ
phận có “phù lạc” hiện lên, tức là Lạc của Thiếu dương. Lạc thịnh thời dẫn vào
kinh. Cho nên ở Dương thời chủ dẫn vào, ở âm thời chủ dẫn ra, để lại thấm vào
trong. Các kinh khác đều như vậy [4].
Dương lạc của
Thái dương gọi là quan khu, trên dưới cùng một phương pháp. Hễ thấy trong bộ
phận có phù lạc hiện lên tức là Lạc của Thái dương. Lạc thịnh thời dẫn vào Kinh
[5].
Aâm lạc của Thiếu
âm gọi là Khu nhu. Trên dưới cùng một phương pháp. Hễ thấy trong bộ phận có phù
lạc hiện lên, tức là Lạc của Thiếu âm. Lạc thịnh thời dẫn vào Kinh. Khi dẫn vào
Kinh, qua Dương bộ để rót vào Kinh, khi dẫn ra, do âm bộ rót vào trong Cốt [6].
Âm lạc của Tâm
chủ gọi là Hạ kiên. Trên dưới cùng phương pháp. Hễ thấy trong bộ phận có phù
lạc hiện lên, tức là Lạc của Tâm chủ, Lạc thịnh thời dẫn vào Kinh. “Trên” tức
Thủ quyết âm Tâm chủ, “dưới” tức Túc quyết âm Can [7].
Aâm lạc của Thái
âm, gọi là quan trập. Trên dưới cùng phương pháp. Hễ thấy trong bộ phận có “phù
lạc” hiện lên tức là Lạc của Thái âm. Lạc thịnh thời dẫn vào Kinh [8].
Phàm Lạc mạch của
mười hai kinh, đều có hiện ra ở bì bộ [9].
Xem đó thời biết:
trăm bệnh khi mới phát sinh đều trước từ bì mao. Tả trúng vào nó thời tấu lý mở
ra. Tấu lý mở ra thời phạm vào Lạc mạch. Nếu cứ để nó ở đó mà không tả đi, thời
nó sẽ truyền kinh. Vào kinh mà vẫn để vậy, thời nó lại truyền vào Phủ, và ký
túc ở Trường, Vị [10].
Tà khí mới phạm
vào bì mao, thời các chân lông đều “sẩn” cả lên, rồi tấu khi mở ra mà dẫn vào
Lạc [11].
Khi vào lạc, thời
Lạc mạch thịnh, sắc biến đi [12].
Khi dẫn vào Kinh,
thời khi của Tàng phủ bị hư mà lõm xuống [13].
Nếu lưu ở khoảng
cân cốt, hàn nhiều thời cân rút, cốt đau, nhiệt nhiều thời cân trùng, cốt tiêu,
thịt sút, xương khoai nứt nẻ, lông tóc cứng thẳng, các bại chứng đều phát sinh
[14].
Mười hai bộ của
bì, phát sinh bệnh thế nào? [15]
Bì là bộ phận của
mạch. Tà phạm vào bì thời tấu lý mở ra, do đó tà phạm vào Lạc mạch, lại do Lạc
mạch phạm vào Kinh mạch. Kinh mạch mãn thời phạm vào Tàng, Phủ. Vậy biết. bì
cũng có bộ phận, vì khi bất cập mới gây bệnh, nên bệnh lớn [16].
THIÊN 57 : KINH LẠC LUẬN
Hoàng Đế hỏi
rằng: [1]
Lạc mạch hiện ra
năm sắc khác nhau. Sở dĩ có sự không giống nhau đó, là vì sao? [2]
Kỳ Bá thưa rằng:
Kinh có thường
sắc, còn lạc thời biến dịch rất không thường.
Thế nào là
thường? [3]
Tâm đỏ, Phế
trắng, Can xanh, Tỳ vàng, Thận đen. Đó là mạch sắc thường của các Kinh [4].
Âm Dương của Lạc,
có ứng với Kinh không? [5]
Sắc của Âm lạc,
ứng với Kinh, sắc của Dương lạc, biến đổi thông thường, theo bốn mùa mà dẫn đi
[6].
Hàn nhiều thời
“đọng rít”. Đọng rít thời hiện ra sắc xanh và đen; nhiệt nhiều thời “loãng
chảy”. Loãng chảy thời hiện ra sắc vàng và đỏ. Nếu năm sắc cùng hiện ra một
lúc, sẽ thành bệnh vừa hàn vừa nhiệt [7].
THIÊN 58 :KHI HUYẾT LUẬN
Hoàng Đế hỏi
rằng:
Tôi nghe Khí
huyết, có ba trăm sáu mươi nhăm huyệt, để ứng với một năm, xin cho biết rõ là
làm sao? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Bối với Tâm cùng
rút nhau vào mà đau, nên trị ở Thiên đột, Thập trùy với Thượng kỷ. Thượng kỷ
tức là Vị quản: Hạ kỷ tức là Quan nguyên [2].
Hoàng Đế chắp
tay, nhường qua một bên, không dám nhận mà nói [3]
Tà khí ở bối và
Hung, nó liên lạc với âm, dương, tả, hữu như vậy, phát sinh ra bệnh tiền hậu
đau và rít, hung hiếp đau không thể thở, không thể nằm, khi nhược lên, ngắn hơi
và thiên thống [4].
Mạch của nó
“phình to ra”, lệch sang, Khao môn mạch, chằng qua Hung, Hiếp, rẽ vào Tâm suốt
lên cách, vòng lên vai, qua Thiên đột, lệch xuống dưới vai, giao ở dưới thập
chùy (đốt xương sống thứ mười) [5].
Về Tàng du có năm
mươi huyệt (Mỗi Tàng có năm huyệt. Năm lần năm là hai mươi lăm huyệt, mỗi huyệt
lại chia làm tả hữu hai huyệt. Nên mới thành năm mươi huyệt) [6].
Phủ du bảy mươi
hai huyệt [7].
Sáu Phủ, mỗi Phũ
6 huyết, 6 x 6 = 36. Mỗi huyệt lại chia làm tả hữu hai huyệt, nên mới thành 72
huyệt.
Nhiệt du năm mươi
chín huyệt [8].
1) Ở trên đầu có
5 hàng, mỗi hàng 5 huyệt, thành 25 huyệt; Đại trử. Ưng du, Khuyết bồn, Cốt du,
mỗi huyệt có 2, thành 8 huyệt, Khi nhai, Tam lý, Cự hư, Thượng hạ liêm, mỗi
huyệt có 2, thành 8 huyệt; Vân môn, Ngu cốt, Uûy trung, Tủy không, mỗi huyệt có
2, thành 8 huyệt, bên cạnh du của 5 Tàng, đều có 2 huyệt, thành 10 huyệt. Hợp
cả lại thành 59 huyệt.
Thủy du năm mươi
bảy huyệt [9].
1) Trên xương
“khu” 5 hàng, mỗi hàng năm huyệt thành 25 huyệt. Trên Phục thổ đều có hai hàng,
mỗi hàng có 5 huyệt, thành 20 huyệt, trên Khỏa đều có 1 hàng, mỗi hàng có 6
huyệt, thành 12 huyệt. Tổng cộng thành 57 huyệt. Trở lên cộng 116 huyệt.
Trên đầu năm
hàng, mỗi hàng năm huyệt. Thành hai mươi lăm huyệt (1).
1) Trên đây lại
nói về huyệt của Nhiệt du một lần nữa, vì Nhiệt du tức cũng là Khí huyệt. Do ở
nó “có thể lấy khí có thể tả nhiệt” lại có thể khiến nhiệt tà theo khí mà tiết
ra, cho nên dưới đây lại nói: “Nhiệt du tại khí huyết”.
Hai bên trung lữ
đều có 5, thành 10 huyệt [10]. Trên hai bên Đại trùy, đều có 1, thành 2 huyệt
[11]. Phù bạch bên đồng tử mắt có 2 huyệt [12]. Lưỡng bễ áp hai huyệt [13]. Độc
Tỵ 2 huyệt [14]. Huyệt Đa sở văn ở giữa tai, 2 huyệt [15] . My bản 2 huyệt
[16]. Uyển cốt 2 huyệt [17]. Hàng trung ương một huyệt [18]. Chẩm cốt 2 huyệt
[19]. ) Thượng quan hai huyệt [20]. Đại nghinh 2 huyệt [21]. Hạ quan hai huyệt.
23 Thiên trụ 2 huyệt [ 23]. Cự hư, thương, hạ liêm 4 huyệt [24]. Khúc nha 2
huyệt [25]. Thiên đột 1 huyệt [26]. Thiên phủ 2 huyệt [27]. Thiên dũ 2 huyệt
[28]. Phù đột 2 huyệt [29]. Thiên song 2 huyệt [30]. Kiên giải 2 huyệt [31].
Quan nguyên 1 huyệt [32]. Uûy dương 2 huyệt [33]. Kiên trinh 2 huyệt [34]. Aâm
môn 1 huyệt [35]. Tề 1 huyệt[36]. Hung du 12 huyệt [37]. Bối du 2 huyệt [38].
Ưng du 12 huyệt [39]. hận phục 2 huyệt [41]. Khỏa thượng hoành 2 huyệt [42].
Aâm, Dương kiêu 4 huyệt. Chiến hải + Thân mạch, Dương phụ [42].
Thủy du ở các
phân nhục, nhiệt du tại khi huyết [43]. Hàn nhiệt du tại “lưỡng hài” (1) áp
trung (Điều gốc) 2 huyệt [44].
Một huyệt Đại cấm
(cấm rất ngặt) 25 thích, ở dưới huyệt Thiên phủ 5 tấc [45].
Hoàng Đế nói:
Tôi đã được biết
rõ Khí huyệt ở những nơi đâu, nhờ có cách dùng châm rất được dễ dàng. Nhưng còn
Tôn lạc và Khê, Cốc, tương ứng như thế nào, xin cho biết... [47]
Kỳ Bá thưa rằng:
Tôn lạc có 365
huyệt hội, cũng để ứng với một năm, vừa để thông Vinh, Vệ, có khi lại sinh
những bệnh lạ lùng [48].
Nếu Vinh, Vệ bị
ngừng đọng. Vệ tán, vinh tràn, khí kiệt, huyết nghẽn, thì bên ngoài sẽ phát hàn
nhiệt, bên trong thời thành thiểu khí... Phải “tả” ngay đừng chậm, để thông
Vinh, Vệ.
Vậy thấy sắc. Lạc
hiện lên thời tả ngay, không cần phải xét đến “sở hội” [49].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết
huyệt hội của Khê, Cốc thế nào? [50]
Kỳ Bá thưa:
Nơi đại hội của
nhục gọi là Cốc, nơi tiểu hội của Nhục gọi là Khê, ở trong khoảng phận nhục và
nơi hội của Khê Cốc, là để hành Vinh, Vệ, để tụ hội đại khí (1) [51].
Tà nhiều, khí
nghẽn, mạch nhiệt, nhục bại, vinh vệ không lưu hành được, sẽ phải hóa thành mủ,
trong làm tiêu hao cốt tủy, ngoài làm nứt vỡ bọng chân... Rồi lưu hành mãi ở
các khớp xương, sẽ cùng gây nên tất bệnh [42].
Hàn tích ở bên
trong vinh vệ không thuận, thịt nhăn, gân co, khuỷu tay không duỗi ra được. Bên
trong thành chứng cốt tý, bên ngoài thành chứng bất nhất. Gọi là “bất túc” đó
là bởi khi đại hàn ngừng trệ ở Khê, Cốc mà gây nên [43].
Khê và Cốc, 365
huyệt hội, cũng để ứng với một năm. Nếu khí vít tầm thường, chí tràn lan đi lại
ở trong mạch, châm nhẹ có thể tới, thời phép châm cũng như các nơi khác [44].
THIÊN 59 : KHI PHỦ LUẬN
Mạch khí, của Túc
Thái dương phát ra 78 huyệt. Hai đầu lông mày, mỗi bên một huyệt. Từ khoảng tóc
tới cổ, ba tấc rưỡi, bên cạnh có 5 huyệt, cùng cách nhau 3 tấc [1].
Thấy phù khí hiện
lên ở trong bì (da), có 5 hàng mỗi hàng có 5 huyệt. Năm lần năm, thành 25
huyệt. Hai bên đại cân ở cổ, mỗi bên có một huyệt. Từ hiệp bối trở xuống đến
Cầu Vỹ 21 tiết khoảng đốt thứ 15, nếu có một huyệt. Du của 5 Tàng, mỗi Tàng đều
có 5 Du, Du của 6 Phủ, mỗi phủ đều có 6 Du. Từ Uûy trung trở xuống đến cạnh Túc
tiểu chỉ đều có 6 Du [2].
3) Mạch khí của
Túc Thiếu dương phát ra 62 huyệt. Trên hai góc đầu (giác), mỗi bên đều có 2
huyệt, từ mắt thẳng lên phát tế, đều có 5 huyệt, phía trước tai đều có 1 huyệt,
phía sau tai đều có 1 huyệt, dưới Nhuệ phát đều có một huyệt, dưới Khách chủ
nhân đều có một huyệt, chỗ lõm phía sau tai, đều có một huyệt, ở Hạ quan, đều
có một huyệt, ở Khuyết bồn, đều có một huyệt, ở dưới nách 3 tấc, từ Hiệp đến
Khư, 8 khoảng, đều có một huyệt, bên cạnh Bễ khu đều có một huyệt, từ đầu gối
đến ngón chân thứ hai, đều có 6 Du [3].
Mạch khí của Túc
Dương minh phát ra 68 huyệt, Đầu trán và cạnh phát tế đều có 3 huyệt, hai bên
Cầu cốt không đều có một huyệt, nơi cốt không của huyệt Đại nghinh, đều có một
huyệt tại Nhân nghinh, đều có một huyệt, tại Khuyết bồn ngoài Cốt không đều có
một huyệt, tại Ưng trung gian đều có một huyệt. Giáp Tể quảng 3 tấc, đều có 3
huyệt, tại Khí nhai động mạch, đều có một huyệt, tại trên Phục thổ đều có một,
từ Tam lý trở xuống đến ngón chân giữa đều có 8 Du [4].
Mạch khí của Thủ
Thái dương phát ra 36 huyệt. Phía trong đầu, mắt đều có một huyệt. Phía ngoài
mắt đều có một huyệt, dưới Cầu cốt đều có một huyệt, trên vành tai, đều có một
huyệt, trong tai, đều có một huyệt, tại huyệt Cự cốt đều có một huyệt, tại trên
Khúc dịch đều có một huyệt, tại chỗ lõm trên Trụ cột, đều có một huyệt, tại
Kiên giải, đều có một huyệt, dưới Kiên giải 3 tấc, đều có một huyệt, từ khuỷu
trở xuống đến cuối ngón tay út đều có 6 Du [5].
Mạch khí của Thủ
Dương minh phát ra 22 huyệt. Từ Tỵ không ngoại liêm đến trên cổ đều có 2 huyệt,
tại đại nghinh cốt không đều có một huyệt, tại nơi hội của Trụ cốt, đều có một
huyệt, tại nơi hội của Ngu cốt, đều có một huyệt, từ khuỷu trở xuống đến cuối
ngón tay cái, đều có 6 Du [6].
Mạch khí của Thủ
Thiếu dương phát ra 32 huyệt. Dưới Cứu cốt, đều có một huyệt, sau lông mày đều
có một huyệt. trên “giác” đều có một huyệt, phía sau Hạ hoàn cốt, đều có một
huyệt, giữa cổ, phía trước huyệt của Túc Thái dương, đều có một huyệt, tại cạnh
Phù đột, đều có một huyệt, tại Kiên trinh, đều có một huyệt tại dưới Kiên trinh
khoảng dưới 3 tấc, đều có một huyệt, từ khuỷu trở xuống đến cuối ngón tay vô
danh đều có 6 Du [7].
Mạch khí của Đốc
mạch phát ra 28 huyệt. Khoảng giữa cổ đều có 2 huyệt, sau Phát tế có 8 huyệt,
tại giữa mặt có huyệt, Từ Đại Trùy trở xuống đến Cầu vĩ và bên cạnh, có 15
huyệt. Về phép kiểm nhận tích trùy (đốt xương sống), từ Đại trùy trở xuống đến
Để cốt, cộng 21 đốt, (trên Đại trùy có 3 đốt nữa, cộng thành 24 đốt, Có người
nói là ứng với 24 khí) [8].
Mạch khí của Nhâm
mạch phát ra 28 huyệt. Khoảng giữa Hầu, 2 huyệt, tại Ung trung cốt, Hãm trung,
đều có một huyệt tại dưới Cưu vĩ hai tấc, tại Vị oản 5 tấc, từ Vị oản trở xuống
đến Hoành cốt một tấc rưỡi, linh một phân. Đó là Phúc mạch pháp vậy (phép chẩn
mạch tại phúc bộ), tại Hạ âm riêng có một huyệt, dưới mắt đều có một huyệt,
dưới môi có một huyệt, tại “lợi” răng có một huyệt [9].
Mạch khí của xung
mạch phát ra 22 huyệt. Ngoài Cưu vĩ mỗi bên đều nửa tấc, đến khoảng rốn, cùng
cách nhai một tấc, đều có một huyệt. Từ bên cạnh rốn trở xuống, mỗi bên đều có
5 phân, đến Hoành cốt một tấc, có một huyệt. Đó là Phúc mạnh pháp vậy [10].
Mạch của Túc
Thiếu âm phát ra ở dưới lưỡi [11].
Cấp mạch ở mao
trung Quyết âm, đều có một huyệt [12].
Thủ Thiếu âm điều
có một huyệt [13].
Aâm, Dương kiêu
đều có một huyệt [14].
Mạch khí phát ra
ở Thủ, Túc Ngư tế, cộng ba trăm sáu mươi lăm huyệt [15].
THIÊN 60: CỐT KHÔNG LUẬN
Hoàng Đế hỏi
rằng:
Tôi nghe: phong
là một thứ bắt đầu sinh ra trăm bệnh. Dùng châm để điều trị, nên như thế nào?
[1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phong từ ngoài
vào, khiến người rét run, hãn ra, đầu nhức mình nặng, ố hàn. Nên trị tại Phong
phủ, làm cho âm dương điều hòa. Bất túc thời bổ, hữu dư thời tả [2].
Đại phong phạm
vào người, khiến cho gáy, cổ đau, nên thích ở Phong phủ. Huyệt Phong phủ tại
thượng trùy (Phong phủ tức là huyệt của Đốc mạch) [3].
Đại phong phạm
vào người, hãn ra. Cứu ở huyệt Y hy. Huyệt Y hy tại dưới bối cách đường xương
sống 3 tấc, lấy tay áp mạnh vào, bảo bệnh nhân kêu to lên hai tiếng “y hy”,
huyệt sẽ bật lên ở dưới tay [4].
Nếu thấy gió mà
ghê gió, thích ở đầu lông mày [5].
Nếu gáy đau không
gối được, thích khoảng Hoành cốt tại trên vai [6].
Nếu lưng đau như
gãy xuống, dùng tay buông thõng xuống, ngang với đầu khủyu tay, chiếu ra xương
sống, sẽ cứu ở đấy [7].
Đau ở Diểu lạc,
qúi hiếp, lan ra Thiếu phúc, vừa đau vừa, trướng, thích ở huyệt Y hy [8].
“Yêu” đau không
thể cúi ngửa, đau rút xuống âm nóãn, thích luật biểu ở phận giác ở lưng [9].
Chứng Thử lậu,
phát hàn nhiệt, thích ở Hàn phủ. Huyệt Hàn phủ tại gần huyệt Giải vinh ở đầu
gối. Nếu muốn lấy huyệt Uûy trung tại sau gối (khuỷu, kheo) thời bảo đứng “vái”
(Vì đứng vái thì ưỡn thẳng kheo ra, dễ lấy huyệt), muốn lấy ở túc tâm thời bảo
quì (túc tâm tức là huyệt Dũng toàn. Quì thời chia hẳn lòng bàn chân ra, thấy
được huyết ngay) [10].
Nhâm mạch phát
sinh từ phía dưới Trung cực lên tới Mao tế, vòng phúc lý, lên quan nguyên, đến
Yết hầu, qua mép vòng lên mắt [11].
Xung mạch phát
sinh từ Khí nhai, cùng với kinh Thiếu âm qua Tể dẫn lên, đến Hung thời chia đi
[12].
Nhâm mạch mắc
bệnh, ở con trai bên trong kết thành bảy chứng Sáu, ở con gái, sinh chứng Đái
hạ và Giả tụ [13].
Xung mạch mắc
bệnh, khí nghịch và lý cấp [14].
Đốc mạch mắc
bệnh, xương sống cứng và đau như gãy [15].
Đốc mạch phát
sinh từ Thiếu phúc, ở khoảng giữa hạ cốt [16].
Về con gái, buộc
vào Đình khổng (tức âm hộ), chỗ, “khổng” đó, tức là gốc của Niệu khổng. Lạc của
nó, vòng âm khi, hợp với Thoán gian, quanh ra Thoán hậu, chằng xuống diễn, đến
thiếu âm với Cự dương. Về trung lạch hợp với Thiếu âm, dẫn lên phía sau vế,
xuất lên “tích” rồi nóái vào Thận. Cùng với mạch của kinh Thái dương khởi ở
phía trong đầu mắt, lên trán, qua đỉnh đầu, chằng vào óc, rồi quanh xuống cổ,
vòng xuống vai, qua tích đến yêu, giáp với Lữ và chằng vào Thận [17].
Về con trai, theo
hành (tức sinh thực khí) đến Thoán, cũng giống con gái. Một đường do Thiếu phục
dẫn lên, qua giữa rốn, suốt Tâm, tới Hầu, lên mép, vòng môi rồi buộc lên phía
dưới hai mắt [18].
Bệnh phát sinh ở
mạch nầy, từ Thiếu phúc xung lên Tâm mà đau, không đại tiểu được, đó gọi là
Xung sán, ở con gái thời không thụ thai. Nếu phát ở tiền, hậu âm thời sẽ là các
chứng long (tiểu buốt). Trĩ, di nịch, và ách can [19].
Đốc mạch phát
bệnh, trị ở Đốc mạch, huyệt tại cốt thượng, quá lắm thời thích ở Tề hạ Doanh
[20].
Nếu thượng khí
trở thành tiếng, trị ở giữa Hầu, hoặc tại giữa Khuyết Bổn. Nếu bệnh xung lên
Hầu, nên trị ở Tiệm. Tiệm là nơi phân chi của Đốc mạch, ở gần mép [21].
Đầu gối như bận
bịu khó co duỗi, nên trị ở “Kiền”, ngồi mà đầu gối đau, nên trị ở “Cơ” (Kiền
với Cơ tức là chỗ cơ quan, khớp xương) [22].
Đứng mà thấy nóng
ở trong xương, nên trị ở Hài gian [23].
Đầu gối đau, đau
suốt xuống ngón chân cái, nên trị ở quắc trung [24].
Ngồi mà đầu gối
đau như vật gì bám vào nên trị ở quan [25].
Đầu gối đau không
thể co duỗi nên trị ở Bối nóäi [26].
Đầu gối đau suốt
xương ống như muốn gãy, trị ở Dương minh Trung du dao.
Nếu muốn trị sang
nơi khác thời trị ở Cự dương, Thiếu âm Doanh [27].
Oáng chân đau
nhức không thể đứng lâu, trị ở Duy của Thiếu dương, huyệt này tại trên Ngoại
khỏa 5 tấc Quang minh [29].
Trên Phụ cốt,
dưới Hoành cốt là Kiền, giáp Khoan là Cơ. Tất giải là Hài quan, cái xương liền
với gối là Liên hài, trên Hài là Phụ, trên Phụ là Quắc. Trên Quắc là quan,
xương nằm ngang phía sau đầy là Chẩm [30].
Thủy du có năm
mươi bảy huyệt là: trên chân có 5 hàng, mỗi hàng 5 huyệt, trên Phục thổ có 2
hàng, mỗi hàng 5 huyệt, tả hữu mỗi bên đều có một hàng, mỗi hàng 5 huyệt, trên
khỏa đều có một hàng, mỗi hàng có 6 huyệt [31].
Huyệt Tủy không,
tại sau Não, 3 phân, và tại dưới Lô tế, Nhuệ cốt. Một đường tại dưới ngân cơ,
một đường tại dưới Trung phục cốt phía sau cổ; một đường tại nơi rỗng không ở
Tích cốt; và tại trên phong phủ dưới nơi rỗng không ở Tích cốt, lại ở nơi rỗng
không tại dưới Cầu cốt [32]. Vài huyệt Tủy không tại mặt gần mũi hoặc miệng,
xuống gần hai vai [33]. Cốt không ở hai bắp tay, tại cảnh bắp tay [34]. Tý cốt
không ở cạnh Tý, cách khỏa 4 tấc, ở vào khoảng giữa hai cốt không [35]. Cốt
không của vế cạnh Vế, phía trên gối 4 tấc. Yêu tế cốt không tại phía động mạch
áp chân lông [36]. Cầu cốt không tại phía sau Bễ cốt, cách nhau 4 tấc [37].
Biển cốt (thứ xương giẹp, như xương mặt, không có Tủy khổng, không có dịch tủy
(thay đổi tủy) nhưng bên ngoài cũng cân mạc và các chất thấm nhuần, một loại
với các xương khác [38].
Về phép cứu chứng
hàn nhiệt, trước cứu Đại trùy ở cổ, tính theo tuổi làm “tráng” (mỗi lượt gọi là
mỗi tráng, như 10 tuổi thì 10 tráng v.v). Rồi cứu đến quyết cốt (tức Vĩ cùng,
đều thuộc Đốc mạch), cũng tính “tráng” như trên. Trông xem chỗ lõm ở Bối du, để
cứu ở đó. Cứu ở đầu Hoa cốt trên ngoại khỏa. Cứu ở khe ngón chân út với ngón vô
danh giáp nhau. Cứu ở hãm mạch dưới bộng chân. Cứu ở phía sau ngoại khỏa. Aùn
tay vào trên xương Khuyết bồn, thấy cứng và đau như mới có cai gân nóåi lên,
nên Cứu ngay ở đó. Cứu ở khoảng hãm cốt tại Ưng trung. Cứu ở dưới Thúc cốt tại
bàn tay. Cứu ở dưới 3 tấc huyệt quan nguyệt tại dưới rốn. Cứu ở Động mạch tại
mao tế. Cứu ở dưới xương đầu gối 3 tấc. Cứu ở động mạch thuộc Túc Dương minh
tại trên xương khoai. Cứu ở đỉnh đầu một tráng. Nơi chó cắn, Cứu 3 tráng, đó
tức là lấy phương pháp, trị bệnh chó cắn để cứu [39].
Phàm nên cứu,
tổng cộng 29 huyệt, Lại có thể dùng phương pháp Cứu thương thực để Cứu [40].
Nếu chưa khỏi,
nên nhằm cái kinh của nó hướng về Dương, thời nên luôn thích ở Du, và cho uống
thuốc thêm (3) [41].
THIÊN 61 : THUỶ NHIỆT HUYỆT LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Thiếu âm sao lại
chủ về Thận? Thận sao lại chủ về Thủy? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thận, thuộc về
Chí âm; Chí âm là nơi để chứa Thủy, Phế thuộc về Thái âm. Thiếu âm mạch thuộc
về mùa Đông. Cho nên gốc nó ở Thận mà ngọn nó là Phế. Đều là những nơi chứa
nước [2].
Thận sao lại có
thể tụ được Thủy mà sinh ra bệnh? [3]
Thận là cửa của
Vị, vì “quan môn” không lợi nên mới tụ thủy và theo về cùng loài của nó [4].
Làm quá sức nhọc
mệt; thời Thận hãn toát ra. Thận hãn toát ra mà gặp gió, trong không thể lọt
vào Tàng phủ; ngoài không thể vượt ra bì phu. Khách (1) ở Huyền phủ, dẫn đi ở
trong bì, truyền làm chứng phù thũng, gốc nó ở thận, gọi là Phong thủy Huyền
phủ tức là lỗ hổng cho hãn toát ra.
Hoàng Đế hỏi:
Thủy du năm mươi
bảy nơi, nó chủ về gì? [6]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thận du năm mươi
bảy huyệt, là nơi tụ của tích âm, thủy do đó mà ra vào. Tại cầu thượng có 5
hàng mỗi hàng có 5 huyệt, đều là Thận du. Cho nên, thủy dẫn xuống thành phù
thũng, ở đại phúc thành chứng thở suyễn, không thể nằm. Vì “Tiêu, bản” đều mắc
bệnh, nên mới có chứng “suyễn thở” và “phù thũng”, do thủy khí không du chuyển
mà gây nên (1) [7].
Trên Phục thổ có
hai hàng, mỗi hàng 5 huyệt. Đó là khí nhai của Thận, và là nơi giao kết tại
chân của ba kinh âm [8].
Trên “khỏa” đều
có một hàng, mỗi hàng 6 huyệt. Đó là đường lối dẫn xuống của thận mạch, gọi là
Thái xung. Tất cả 57 huyệt đó, đều là âm lạc của Tàng, mà Thủy “khách” vào đó
[9].
Hoàng Đế hỏi:
Mùa xuân thích ở
Lạc mạch, phận nhục, là vì cớ sao?
Kỳ Bá thưa rằng:
Mùa xuân, hành
mộc mới bắt đầu thống trị Can khí mới sinh. Can bẩm thụ cái khí phong mộc, nên
“cấp, tật” (kíp, chóng); Kinh mạch do Đông lệch phục tàng ở sâu, giờ gặp xuân
khí mới ra, nên khí còn ít. Vậy dùng châm, không thể vào sâu, để lấy ở Kinh, mà
chỉ lấy “Nóâng” ở nơi Lạc mạch phận nhục (1).
Mùa Hạ thích ở
thịnh kinh và phận tấu, là vì sao? [12]
Về mùa Hạ, hành
Hỏa mới trị thời Tâm khí mới sinh trưởng. Mạch còn nón, khí còn yếu. Dương khí
ứ ràn, nhiệt hun phận tấu, bên trong lấn vào tới Kinh. Cho nên phải thích ở
kinh phận tấu. Làm đứt hẳn lối đi của tà ở ngoài bì phu vì là nó còn ở chỗ
nóâng. Trên nói là “thịnh kinh”, vì dương đương thịnh ở đó [13].
Mùa Thu, thích ở
Kinh du, là vì sao? [14]
Về mùa Thu, hành
Kim mới trị thời, Phế khí sắp thâu sái, kim khí sắp phát triển, Dương khí ở nơi
hợp, âm khí mới sinh ra. Thấp khí nhiễm vào thân thể, âm khí chưa toàn thịnh,
chưa thể vào sâu, cho nên thích ở Du để tả âm tà, thích ở Hợp để hư dương tà.
Dương khí mới suy, nên thính ở Hợp (1) [15]
Mùa Đông, thích ở
Tỉnh, Vinh là vì sao?
Về mùa Đông, hành
Thủy mới trị thời. Thận mới “bế” (đóng, như đóng cửa), dương khí suy ít, âm khí
thịnh nhiều. Cự dương phục trầm, dương mạch cũng lánh dương phận để quy phụ về
bên trong. Cho nên thích ở Tỉnh để hạ khí âm nghịch xuống, thích ở Vinh để làm
cho Dương khí được đầy đủ. Cho nên có câu rằng: “mùa Đông thích ở Tỉnh, Vinh,
“mùa Xuân không sinh chứng Cừu nục” là vì lẽ đó.
Hoàng Đế hỏi:
Phu tử nói trị
nhiệt bệnh 59 Du, là những gì? Xin cho biết rõ [18].
Kỳ Bá thưa rằng:
Trên đầu 5 hàng,
mỗi hàng có 5 huyệt để làm vượt bỏ nhiệt nghịch của chư dương. Đại chữ, Ưng du,
Khuyết bồn, Bối du, 8 huyệt đó (vì mỗi huyệt chia làm hai bên mỗi bên một
huyệt, mới thành tám), để tả bỏ nhiệt ở trong Hung. Khí nhai, Tam lý, Cự hư,
Thượng hạ liêm, 8 huyệt đó (cũng như trên) để tả bỏ nhiệt ở trong Vị. Vân môn.
Ngung cốt, Uûy trung, Tủy không 8 huyệt đó (như trên) để tả bỏ nhiệt ở tứ chi
[19].
Bên cạnh Du, của
năm Tàng đều có năm huyệt 10 huyệt đó để tả bỏ nhiệt của năm Tàng. Phàm 59
huyệt trên đó, đều theo nhiệt ở tả hữu để tả [20].
Người bị thương
về khí hàn mà truyền thành bệnh nhiệt, là vì sao? [21]
Vì Hàn quá thời
sẽ thành nhiệt (1) [22]
THIÊN 62: ĐIỀU KINH LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Ta nghe nói về
phép thích “hữu dư thời tả, bất túc thời bổ”, vậy thế nào là hữu dư và bất túc?
[1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Hữu dư có năm
loại, bất túc có năm loại. Vậy Hoàng Đế muốn hỏi về loại nào ? [2]
Xin cho biết cả.
[3]
Thần, có hữu dư,
có bất dư, có bất túc, huyết; có hữu dư, có bất túc; hình, có hữu dư, có bất
túc... Tất cả 10 loại đó, khí đều không giống nhau [4].
Hoàng Đế hỏi:
Người có tinh,
khí, tân dịch, tứ chi, cửu khiếu, năm Tàng, mười sáu bộ, ba trăm sáu mươi
tiết... Bấy giờ mới sinh ra trăm bệnh. Trăm bệnh sinh ra đều có hư thực. Giờ
phu tử lại nói “hữu dư, bất túc” đều có năm, vậy lấy gì để sinh ra trăm bệnh?
[5]
Đều sinh ra bởi
năm Tàng. Nghĩ như: Tâm tàng Thần, Phế tàng khí, Can tàng Huyết, Tỳ tạng Nhục,
Thận tàng chí... Để gây thành hình ấy. Chỉ khí thông với nhau, trong liền với
cốt tủy, rồi sau mới thành được thân hình. Cái đường lối của năm Tàng, đều ra
từ kinh toại, để lưu hành khí huyết. Nếu khí huyết không điều hòa, trăm bệnh sẽ
biến hóa sinh ra. Vậy về phương pháp điều trị, cần phải chú trọng về kinh toại
[6].
Thần, hữu dư và
bất túc, thời thế nào? [7]
Thần hữu dư thời
cười không ngớt, bất túc thời bi “thương, buồn” (1) [8].
Bổ, tả như thế
nào? [9]
Hữu dư thời tả bỏ
huyết ở tiểu lạc, cho xuất huyết nhưng đừng thích sâu, e sẽ trúng vào Đại kinh.
Như thế, thần khí sẽ quân bình. Thần bất túc, thời trông cái hư lạc, án vào
huyệt để cho khí đến, rồi thích vào lạc cho huyết được thông lợi. Đừng để cho
xuất huyết, đừng để cho tiết khí, cốt làm cho thông hơi kinh mạch. Như thế,
thần khí sẽ quân bình [10].
“Thích vi” như
thế nào? (tức thích lúc sơ cảm)... [11]
Trước hãy án ma
vào huyệt đừng rời tay, rồi sẽ dùng châm, nhưng đừng mạch, khiến cho tà khí
dịch tới chỗ bất túc, thần khí sẽ hồi phục (1) [12].
Khí, hữu dư, bất
túc như thế nào? [13]
Khi hữu dư thời
suyễn, khái và thượng khí, bất túc thời khi thở và thiếu khí [14].
Huyết khí chưa
dồn, năm tàng an định, bì phu hơi mắc bệnh gọi là “bạch khí hội tiết” [15].
Bổ, tả như thế
nào? [16]
Khí hữu dư thời
tả ở Kinh toại, đừng làm thương đến Kinh, đừng làm cho xuất huyết, đừng làm cho
tiết khí. Bất túc thời bổ ở Kinh toại, đừng để cho xuất khí (tức là tiết mất
khí của Kinh toại) [17].
“Thích vi” như
thế nào? [18]
Aùn ma đừng rời
tay, cầm châm, trông kỹ để định nóâng sâu. Thích vừa đúng, kinh khí sẽ hồi
phục, tà khí khỏi tán loạn; do đó, tà khí tiết cả ra bì mao tấu lý, lại được
quay trở về phu biểu, mà bệnh sẽ khỏi [19].
Huyết, hữu dư,
bất túc, như thế nào? [20]
Hữu dư thời nóä;
bất túc thời khủng. Huyết khí chửa dồn, năm Tàng an định; Tôn lạc nước ràn
(nước tân dịch), thời Kinh có lưu huyết [21].
Bổ, tả như thế?
Huyết hữu dư thời
tả ở thịnh kinh, để xuất huyết. Nếu bất túc, thời trông như ở hư kinh, để châm
trong mạch, ngâm lâu để trông; nếu mạch nhanh quá, thời xuất châm, đừng để cho
huyết ra (1) [22].
Thích “lưu huyết”
như thế nào? [23]
Trông ở huyết
lạc, thích cho xuất huyết; đừng để cho ác huyết được lọt vào Kinh, để gây nên
bệnh [24].
Hình, hữu dư, bất
túc như thế nào? [25]
Hình hữu dư thời
phúc trướng, tiểu thủy không lợi; bất túc thời tứ chi không cử động được. Huyết
khí chưa dồn, năm Tàng an định, cơ nhục nhu động (cồn lên, như sâu bò trong
thịt), gọi là vi phong [26].
Bổ tả như thế
nào? [27]
Hình hữu dư thời
tả ở Dương kinh; bất túc thời bổ ở Dương lạc (1) [28].
“Thích vi” như
thế nào? [29]
Thích ở khoảng
phận nhục, đừng để trúng kinh, đừng làm thương Lạc. Vệ khí hồi phục được, tà
khí sẽ bị tan đi [30].
Chí, hữu dư, bất
túc như thế nào? [31]
Chí hữu dư thời
phúc trướng, xôn tiết, bất túc thời Quyết (1) [32].
Huyết khí chưa
dồn, năm tàng an định, cốt tiết có động (vì bị phong phạm vào, nên động) [33].
Bổ, tả như thế
nào? [34]
Chí hữu dư thời
tả bổ huyết ở huyệt Nhiên cân (tức là Nhiên cốc, và Vinh huyệt thuộc Túc thiếu
âm) bấc túc thời bổ Huyệt lưu (túc kinh huyệt của túc thiếu âm). Phục lưu [35].
Thích từ lúc
huyết khí chửa dồn như thế nào? [36]
Thích ngay ở chỗ
“động” tại cốt tiết, nhưng đừng để trúng kinh, tà sẽ hư suy ngay [37].
Hoàng Đế hỏi:
Tôi đã được nghe
cái hình về hư thực rồi, vậy xin cho biết vì đâu mà sinh ra? [38]
Kỳ Bá thưa:
Huyết khí đã dồn,
âm dương cùng xung đột nhau, khí loạn ở Vệ, huyết nghịch ở kinh, huyệt khí ở
lìa sẽ sinh ra một thực một hư [39].
Kinh văn: Huyết ở
vào Aâm, khí dồn vào Dương, nên phát thành kinh cuồng [40].
Huyết dồn lên
trên, khí dồn xuống dưới, sẽ thành chứng Tâm phiền, uất, hay nóä. Huyết dồn
xuống dưới, khí dồn lên trên, tinh thần sẽ loạn mà hay quên [42].
Huyết dồn vào
Aâm, khí dồn vào Dương, thời như thế! Còn huyết khí lìa nhau thời thế nào là
thực, thế nào là hư? [43]
Huyết khí là một
đầu thính “hỷ ôn mà ố hàn”. Hàn thời ngừng trệ mà không lưu thông, ôn thời sẽ
tiêu tan mà lưu thông. Vậy nên nếu khí dồn vào, sẽ thành huyết hư, huyết dồn
vào, sẽ thành khí hư [44].
Hoàng Đế hỏi:
Ở trong con người
chỉ có khí với huyết mà thôi. Giờ phu tử lại nói: “huyết dồn là hư, khí dồn là
hư...” vậy là không có “thực” chăng? [45]
Kỳ Bá thưa:
“Hữu” thời là
thực, “vô thời là hư, cho nên khí dồn thời không có huyết, huyết dồn thời không
có khí. Giờ huyết với khí cùng trái nhau nên đều là hư [46].
Lạc với Tôn lạc
đều rót vào Kinh. Huyết với khí dồn, thời sẽ là thực. Huyết cùng với khí dồn cả
lên trên, thời là đại quyết. Quyết thời bạo tử. Nếu khí trở lại thời sống,
không trở lại thời chết[47].
Hoàng Đế hỏi:
Thực, do đường
nào lại; hư, do đường nào đi?... Cái cốt yếu của hư thực thế nào, xin cho biết
rõ[48].
Kỳ Bá thưa
rằng:âm với Dương đều có Du hội. Dương rót vào âm, âm ràn ra ngoài. Âm dương
quân bình, để nuôi thân hình, chín hậu như một, sẽ là bình nhân[49].
Phàm bệnh tà sinh
ra hoặc sinh ra bởi âm, hoặc sinh ra bởi dương. Cái sinh ra bởi dương, phần
nhiều do phong, vũ, hàn, thử cái sinh ra bởi âm, phần nhiều do ẩm thực, cư xử,
và âm dương, hỷ nóä [50].
Hoàng Đế hỏi:
Phong, vũ làm thương
đến con người, như thế nào? [51]
Phong, vũ làm
thương con người, trước “khách” ở bì phu, truyền vào đến Tôn mạch, Tôn mạch
đầy, lại truyền vào lạc mạch, lạc mạch đầy, thời chuyển du vào đại kinh mạch.
Huyết khí với tà khí, cùng “khách” cả ở khoảng phận nhục và tấu lý, mạch nó
kiên đại nên gọi là “thực”. Thực là một trạng thái bên ngoài kiên và sung mãn,
không thể án tay vào. Aùn tay vào thời lý khí có thể ứng ra mà làm cho ôn, nên
dễ chịu mà không đau [52].
Hàn, thấp làm
thương đến con người, như thế nào? [53]
Hàn, thấp trúng
vào người, bì phu bất nhân, cơ nhục kiên khẩn (rắn, lẳn), vinh huyết rít lại,
vệ khí tan đi, cho nên mới thành hư. Hư là do bị tích ở bên trong, khiến khí
bất túc. Aùn tay vào, thời lý khí có thể ứng ra mà làm cho ôn, nên dễ chịu mà
không đau [54].
Aâm sinh ra thực,
như thế nào? [55]
Hỷ, nóä không
tiết thời âm khí nghịch lên, nghịch lên thời dưới hư, dưới hư thời dương khí sẽ
tẩu tán, cho nên nói là “thực” [56].
Aâm sinh ra hư,
như thế nào? [57].
Hỷ thời khí giáng
xuống, bi thời khí tiêu đi, tiêu thời mạch hư không, nhân uống ăn phải thức
hàn, hàn khí tràn lan thời huyết sẽ rít lại, khí sẽ tiêu đi... Nên gọi là hư.
Kinh nói: “Dương
hư thời ngoại hàn, âm hư thời nóäi nhiệt, dương thịnh thời ngoại nhiệt, âm
thịnh thời nóäi hàn...” Tôi đã được nghe rồi. Vậy nguyên nhân nó bởi sao? [59]
Dương “thu” khí ở
Thượng tiêu, để làm “ôn” cho khoảng bì phu phận nhục. Giờ hàn khí phạm ở bên
ngoài, thời Thượng tiêu sẽ không thông. Thượng tiêu không thông, thời hàn khí
riêng chiếm ở ngoài, cho nên thành chứng “hàn tật” (rét run) [60].
Do việc gì khó
nhọc mỏi mệt, hình khí suy ít, cốt khí không được thịnh, Thượng tiêu không vận
hành được cốc khí, Hạ tiêu không tiếp thu được tân dịch, do cái khí dương nhiệt
của Vị bị nghẽn không bố tán đi đâu được, sẽ hun dồn cả lên Hung, mà thành
chứng nóäi nhiệt [61].
Dương hư sinh
ngoại nhiệt là thế nào? [62]
Thượng tiêu không
thông lợi, thời bì phu chặt kín, tấu lý vít lấp, huyết phủ không thông vệ khí
không thể tiết việt được, nên mới thành chứng ngoại nhiệt [63].
Aâm thịnh sinh
nóäi hàn, là thế nào? [64]
Quyết khí nghịch
lên, hàn khí tích ở trong Hung, mà không tả ra được. Không tả ra được thời ôn
khí sẽ bị tan đi, chỉ còn có hàn khí một mình ở lại, huyết do đó mà đọng rít.
Đọng thời mạch không thông. Nó sẽ biến thành thịnh, đại và sắc, cho nên trung
hàn [65].
Aâm với Dương,
dồn vào nhau, huyết khí cũng dồn, bệnh tình sẽ do đó mà gây nên. Nên thích thế
nào? [66]
Thích bệnh này,
nên lấy ở Kinh toại, lấy huyết ở Doanh, lấy khí ở Vệ... Lại phải dùng cả thân
hình nữa, nhân bốn mùa mà thích hoặc nhiều hoặc ít, hoặc cao, hoặc thấp...(1)
[67].
Huyết khí đã dồn,
bệnh hình đã thành, âm dương đã lệch (không quân bình), nên bổ tả như thế nào?
[68]
Muốn tả thực, chờ
cho khí thịnh, sẽ “nạp” châm. Châm với khí cùng nạp (tức thích vào) để mở cửa
cho tinh khí lưu ở trong rồi châm với nhiệt tà cũng rút ra, như thế, tinh khí
sẽ không bị thương, mà tà khí cũng giáng xuống, đừng vít lỗ châm, cho bệnh rút
ra, lại xoay chuyển mũi châm, cho đường lối thêm rộng, đó tức là phương pháp
đại tả. Kíp dồn cho ra, đại khí (tức tà khí) mới ra [69].
Bổ hư thế nào?
[70]
Tay cầm châm, chú
ý vào châm. Chờ lúc bệnh nhân thở ra (hô) sẽ nạp châm, chờ lúc bệnh nhân hút
vào sẽ rút châm. Lúc nạp châm đừng xoay chuyển, khiến tinh khí không thể tiết
ra được, chờ lúc chính khí đã thực sẽ kíp rút châm, lựa cho chính khí lọt vào,
giữa lúc châm vừa rút ra thời nhiệt tà không thể lại lọt vào trong. Khí môn ở
bên trong đã nóng thời tà khí sẽ phải bố tán ở bên ngoài, mà tinh khí sẽ còn
giữ được mãi. Dưới chân khí động, đợi lúc đến nơi, khiến cái khí “thiển cận”
không tán thất ra bên ngoài, cái khí “thâm viễn” được giữ yên ở bên trong. Đó
tức làm một phương pháp bổ chính mà lạ kiêm cả tán tà vậy [71].
Hoàng Đế hỏi:
Phu tử nói hư
thực có mười loại, sinh ra bởi năm Tàng. Năm Tàng chỉ có năm mạch thôi. Ngẫm
như mười hai kinh đều sinh ra bệnh, giờ Phu tử chỉ nói riêng năm Tàng. Vậy mười
hai kinh -mạch kia đều “lạc” ba trăm sáu mươi nhăm tiết (khớp xương). Mỗi tiết
đều có bệnh tật phải lây sang Kinh mạch. Bệnh ở Kinh mạch đều có hư thực, vậy
lẽ đó thế nào? [72]
Kỳ Bá thưa rằng:
Năm Tàng hợp với
sáu Phủ cùng làm biểu lý. Kinh mạch chi tiết, đều sinh hư thực. Hễ bệnh ở nơi
nào, sẽ theo ngay nơi đó để triï. Bệnh tại mạch, điều trị ở huyết; bệnh tại
huyết điều trị ở Lạc, bệnh tại khí điều trị ở Vệ, bệnh tại nhục, điều trị ở
phận nhục; bệnh tại cân điều trị ở cân, bệnh tại cốt, điều trị ở cốt [73].
Phân châm (đem
châm đốt cho nóng) để thích ngay vào nơi bệnh cấp, nếu bệnh tại cốt, thời đốt
châm cho nóng “nhúng” vào nước thuốc rồi sẽ châm, châm rồi, lại dùng thuộc để
“chườm” [74]
Bệnh đau, mà
không biết đau ở đâu, nên thích ở trên lưỡi Kiểu. (Đau một cách lan man, không
nhất định là nơi nào. Kiểu mạch khởi từ Tức khỏa) [75].
Thân hình có nơi
đau, mà xét ở chín “hậu” lại không có bệnh, thời dùng phép Mậu thính [76].
Đau ở bên tả mà
mạch bên hửu mắc bệnh, dùng phép Cự thích để điều trị. Phải cẩn thận tinh tế
xét ở chín hậu, thời đối phép châm sẽ được hoàn toàn [77].
THIÊN 63 : MẬU THÍCH LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Ta nghe phép Mậu
thích, chưa hiểu ra sao, xin cho biết rõ thế nào là Mậu thích ? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Tà khí “khách” ở
thân hình con người, trước tụ ở bì mao, lưu ở đó không tan đi, lại vào tụ ở Tôn
mạch lưu ở đó không tan đi, lại vào tụ ở Lạc mạch ở đó không tan đi, lại vào tụ
ở kinh mạch, khi đó bên trong sẽ liền với năm Tàng, bố tán ra Trường Vị, âm
dương đều thịnh, năm Tàng sẽ thương. Đó là tà khí bắt đầu phạm ở bì mao, rồi
cuối cùng vào tới năm Tàng. Như thế thời điều trị ở Kinh [2].
Giờ tà khí khách
ở bì mao, vào tụ ở Tôn lạc lưu ở đó mà không tan đi, vít lấp không thông, không
được truyền vào Kinh, mà trôi ràn vào Lạc, vì vậy mà gây nên bệnh [3].
Tà khí, “khách” ở
đại lạc, nếu ở bên tả, sẽ rót sang bên Hữu, ở bên hữu sẽ rót sang bên tả. Trên
dưới, tả hữu, cùng giao thông với kinh tương ứng để bố tán ra tứ chi. Cái khí
đó không ở chuyên nơi nào, mà cũng không vào kinh du, nên gọi là Mậu thích [4].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết, vì
cớ sao phép mậu thích lại bệnh ở tả thời thích hữu, bệnh ở hữu thời thích tả...
Cùng với phép cự thích, khác nhau thế nào? [5]
Kỳ Bá :
Tà khách ở kinh,
bên tả thịnh thời bên hữu mắc bệnh, bên hữu thịnh thời bên tả mắc bệnh. Nhưng
cũng có khí di dịch. Bên tả đau chưa khỏi mà mạch bên hữu đã mắc bệnh, như thế,
phải dùng phép Cự thích; nhưng phải thích cho trúng Kinh mạch, chứ không phải
Lạc mạch. Cho nên bệnh ở Lạc, cái sự đau cùng với Kinh mạch khác nhau, nên gọi
là Mậu thích [6].
Hoàng Đế hỏi:
Về phép Mậu
thích, nên như thế nào [7]
Kỳ Bá:
Tà “khách” ở lạc
Túc Thiếu âm, khiến người bỗng dưng Tâm thống, bạo trướng, Hung và Hiếp nghẽn
đầy, xét ra không có “tích”, thích ở trước Nhiên cốt cho ra huyết; trong vòng
như ăn xong bữa cơm, sẽ khỏi. Nếu không khỏi, bệnh bên tả, thích bên hữu; bệnh
bên hữu, thích bên tả. Bệnh mới phát sinh, năm ngày sẽ khỏi [8] .
Tà khách ở Lạc
Thủ Thiếu dương khiến người Hầu tý, thiệt quyển, miệng ráo, tâm phiền, ngoài
cánh tay đau; tay không thể với lên đầu. Thích ở trên móng ngón tay giữa và
ngón vô danh, cách chỗ móng bằng chiếc là Hẹ (cửu diệp) đều một “Vĩ” (vết, hoặc
nóát). Hạng tráng niên, khỏi ngay; người già một lát sẽ khỏi. Bệnh bên tả,
thích bên hữu; bệnh bên hữu, thích bên tả. Bệnh mới phát, vài ngày khỏi [9].
Tà khách ở Lạc
Túc quyết âm, khiến người bỗng dưng Sán thống, bạo thống, thích ở chỗ thịt giáp
móng ngón chân cái, mỗi bên một “Vĩ”. Bệnh nhân là con trai, khỏi ngay, là con
gái một lát khỏi. Bệnh bên tả, thích bên hữu, bệnh bên hữu, thích bên tả [10].
Tà khách ở Lạc
Túc Thái dương, khiến người đầu và cổ đều đau. Thích ở chỗ thịt giáp móng ngón
chân út, mỗi bên một “Vĩ”. Bệnh bên tả, thích bên hữu, bệnh bên hữu thích bên
tả. Như xong một bữa ăn sẽ khỏi [11].
Tà khách ở Lạc
Thủ Dương minh, khiến người khí mãn, trong Hung suyễn và thở gấp, Hiếp, nghẽn,
Hung nhiệt, thích ở Quang Xung, Thiếu Thương ngón tay giữa và ngón vô danh,
cách chỗ móng bằng một lá hẹ nằm ngang, mỗi gón một “Vĩ:”. Bệnh bên tả, thích
bên hữu, bệnh bên hữu, thích bên tả. Như xong bữu ăn sẽ khỏi [12].
Tà khách ở khoảng
tý trưởng (cánh tay, bàn tay), không thể co lại được, thích ở sau Khỏa (sau
khủyu tay), trước lấy tay ấn vào, thấy đau bây giờ mới thích. Lấy nguyệt (mặt
trăng) mọc lặn làm số hạn. Trăng mọc ngày thứ nhất, thích một “Vĩ”, ngày thứ
hai (2 vĩ), ngày 15, 15 (vĩ), ngày 16, 14 (võ) (rút đi dần) [13].
Tà khách ở mạch
Túc Dương kiểu, khiến người mắt đau, bắt đầu từ trong đầu mắt trước, thích ở
dưới. Ngoại khỏa nửa tấc đều 2 “vĩ”. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu,
thích ở tả. Một lát lâu như đi được mười dặm, sẽ khỏi [14].
Nếu bị ngã đau,
ác huyết lưu ở bên trong, trong bụng đầy, không đại tiểu được, trước nên cho
uống (lợi dược) (thứ thuốc uống cho lợi đại tiểu). Bệnh đó, do bên trên thời
thương đến mạch của Quyết âm, bên dưới thời thương đến Lạc của Thiếu dương,
thích ở dưới tức Nóäi khỏa, phía trước Nhiên cốc, để cho huyết ở mạch tiết ra.
Lại thích ở Động mạch trên mu bàn chân, vẫn không khỏi, lại thích ở trên Tam
mao, đều một “vĩ” thấy nhớm huyết, khỏi ngay. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh
bên hữu, thích ở tả. Nếu bệnh nhân hay bị, kinh, không vui, cũng thích như
phương pháp trên [15].
Tà khách ở Lạc
của Thủ Dương minh, khiến người tai điếc, thường không nghe tiếng gì. Thích ở
ngón tay cái, ngón tay trở, chỗ cách móng tay bằng chiếc lá hẹ nằm ngang, đều
một “vĩ”. Có thể nghe tiếng ngay. Nếu không khỏi, thích ở chỗ thịt và móng tay
giáp nhau, có thể nghe được ngay. Nếu bệnh nhân có lúc vẫn nghe được, thời
không thể thích. Nếu trong tai ù ù như gió, cũng thích bấy nhiêu “vĩ”. Bệnh bên
tả thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả [16].
Phàm chứng Tý,
lúc ở chỗ này, lúc ở chỗ nọ, đi lại không có nơi nhất định. Nhận ở ngoài thịt,
chỗ nào đau thời thích, lấy mặt trăng mọc làm hạn. Khi dùng châm, theo khí
thịnh suy để tính số “vĩ”. Nếu châm quá số ngày, sẽ bị thoái khí, nếu không kịp
số ngày, tà khí sẽ không tả ra được. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu,
thích ở tả, bệnh khỏi, thôi không thích nữa, vẫn chưa khỏi, lại thích đúng như
phép theo mặt trăng khi mọc, ngày thứ một, một “vĩ” ngày thứ hai hai “vĩ”...
Rồi nhiều dần lên đến ngày thứ mười lăm thời mười lăm “vĩ:” qua ngày mười sáu
thời mười bốn “vĩ”, rồi lại rút bớt dần [17].
Tà khách ở kinh
mạch Túc Dương minh, khiến người Cừu nục (máu chảy ra đằng mũi) Răng hàm trên
lạnh, thích ở chỗ thịt giáp liền với móng hai ngón chân giữa và ngón vô danh,
đều một “vĩ”. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả [18].
Tà khách ở Lạc
của Túc thiếu dương, khiến người Hiếp (lườn) đau không thể thở, khái mà hãn ra,
thích ở chỗ thịt giáp liền với hai ngón chân vô danh và ngón chân út. Đều một
“vĩ”. Về chứng “không thể thở”, sẽ khỏi ngay, chứng hãn ra cũng chỉ ngay. Còn
chứng khái, phải cho mặc áo ấm, và cho điều dưỡng thêm bằng thức ăn có tính ôn,
một ngày sẽ khỏi. Bệnh bên tả, thích ở hũu, bệnh bên hữu, thích ở tả. Bệnh khỏi
ngay. Nếu vẫn không khỏi, lại thích đúng như phép trước [19].
Tà khách ở Lạc
của Túc thiếu âm, khiến người đau ở cuống họng, không thể nuốt thức ăn, không
vì cớ gì mà cũng hay nóä, khí dẫn ngược lên Bí môn, thích mạch Trung ương ở
dưới chân Dũng tuyền 3 “Vĩ” tất cả sáu lần thích, khỏi ngay. Bệnh bên tả, thích
ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả. Cuống họng sưng, không nuốt được nước miếng,
cũng có lúc không nhổ ra được, thích ở trước Nhiên cốt, cho xuất huyết, khỏi
ngay. Bệnh ở tả, thích bên hữu, bệnh ở hữu, thích bên tả [20].
Tà khách ở Lạc
của Túc Thái âm, khiến người yêu thống, rút xuống, Thiếu phúc, đau ra cả sườn,
không thể nằm ngửa, thích giải huyết khoảng yêu và cầu cốt, và trên hai “thăn”
(thịt giáp xương sống) đó là yêu du. Lấy mặt trăng mọc lặn làm số “vĩ” rút chậm
khỏi ngay. Bệnh bên tả, thích ở hữu, bệnh bên hữu, thích ở tả [21].
Tà khách ở Lạc của
Túc Thái dương, khiến người co rút, lưng gò đau rút xuống hiếp. Thích từ cổ
trước, đếm từng đốt xương sống, vừa đếm nhanh, vừa ấn tay mạnh, gặp chõ nào
đau, thích ngay, ba “vĩ” khỏi ngay [22].
Tà khách ở Lạc
của Túc Thiếu dương, khiến người đau nhức ở Khu trung (tức hai huyệt Hoàn khiếu
ở đùi), không thể cất đùi lên được. Dùng “Hào” (tên một thứ châm) để châm. Nếu
bệnh hàn, thời để châm lâu. Theo mặt trăng mọc lặn làm số “vĩ”, sẽ khỏi ngay
[23].
Điều trị các Kính
biệt, nếu chỗ tà khí đi qua mà không bệnh, thời dùng phép mậu thích (1) [24].
Tai điếc, thích ở
Thủ Dương minh, không khỏi, nên thích ở Thông mạch. mạch này ở phía trước tai.
Thính hội [25].
Răng đau nhức,
thích ở Thủ Dương minh, không khỏi thích vào (cái mạch dẫn vào trong răng), ở
khe răng, sẽ khỏi ngay [26].
Tà khách ở khoảng
5 Tàng, khi phát bệnh, đau rút ở trong mạch, lúc đau, lúc đỡ, nhận kỹ bệnh, rồi
dùng phép Mậu thích. Thông nhị tĩnh huyệt. Trông kỹ và thích ở Mạch tại các đầu
móng chân và móng tay, cho ra huyết. Cách ngày một lần thích. Thích một lần
không khỏi thích năm lần [27].
Cái tà của Thủ
Dương minh do sự “mậu truyền” (tức dẫn nhầm) mà dẫn lên răng (thuộc Túc Dương
minh); răng và môi lạnh và đau. Trên mạch ở trên mu tay có huyết sắc hiện lên,
thời thích bỏ đi, lại thích dưới móng ngón tay giữa thuộc về mạch Thương dương
của Túc dương minh, đều một “vĩ”, khỏi ngay. Bệnh nhân tả thích ở bên hữu, bệnh
bên hữu, thích ở bên tả [28].
Tà khách ở lại cả
Thủ, Túc Thái âm Thiếu âm và Túc Dương minh. Năm lạc đó, đều hội họp ở trong
tai, trên chằng lên “tả giác”. Vì tà khách ở Lạc nên 5 lạc đều kiệt, khiến cách
mạch ở thân thể đều động, người đờ ra như “thây” không biết gì...Hoặc gọi là
Thi quyết. Thích ở cạnh bên trong ngón chân cái, phía trên móng, Aàn bạch cách
móng vằng cái lá hẹ nằm ngang, rồi thích ở Túc tâm, thích phía trên ngón chân
giữa, đều một “Vĩ”, sau lại thích cạnh bên Lệ đài trong ngón tay cái, cách móng
tay bằng một cái lá hẹ nằm ngang, sau lại thích đầu Nhuệ cốt thuộc Thủ Tâm chủ
Thiếu âm, đều một “Vĩ”, khỏi ngay, nếu không khỏi, gọt bỏ chỗ tóc ở tả giác,
vuông bằng một tấc, đốt lấy than, hòa vào một chén rượu ngon, cho uống. Người
không biết uống cũng cố uống, khỏi ngay [29].
30) Phàm cái số
thích, trước phải nhận ở Kinh mạch, án tay dò xem, xét rõ hư thực để điều trị.
Nếu khí huyết không điều thích vào kinh mạch, nếu có nơi đau mà kinh mạch không
mắc bệnh, dùng phép Mậu thích. Lại trong ở bì bộ của huyết lạc hiện lên, đều
phải thích cả. Đó là phương pháp Mậu tích [30].
THIÊN 64 : TỨ THỜI THÍCH NGHỊCH TÙNG LUẬN
Quyết âm hữu dư, thời
mắc bệnh Aâm tý, bất túc, thời mắc bệnh Nhiệt tý, Hoạt, thời mắc bệnh Hồ sán
phong; sắc, thời mắc bệnh Thiếu phúc tích khí [1] .
Thiếu âm hữu dư,
mắc bệnh Tý, và ẩn chuẩn (mọc nóát như sởi); bất túc, mắc chứng Phế tý. Hoạt
thời mắc bệnh Phế phong sán, sắc, thời mắc bệnh tích, và tiểu ra huyết [2].
3 Thái âm hữu dư,
mắc bệnh Nhục tý và hàn trung, bất túc, thời mắc bệnh Tỳ tý. Hoạt thời mắc bệnh
Tý, Phong sán, sắc, thời mắc bệnh tích, Tâm phúc bị [3].
4) Dương minh hữu
dư, mắc bệnh mạch tý, mình thường nóng. Bất túc, mắc bệnh Tâm tý, hoạt thời mắc
bệnh Tâm phong sán, sắc, thời mắc bệnh tích, thỉnh thoảng hay kinh [4].
5) Thái dương hữu
dư, mắc bệnh cốt tý, mình nặng, bất túc, mắc bệnh thận tý, hoạt thời mắc bệnh
Thận phong sán, sắc thời mắc bệnh tích, thỉnh thoảng phát chứng điên [5].
6) Thiếu dương
hữu dư, ắc bệnh Cân tý, hiếp mãn, bất túc, mắc bệnh Cân tý. Hoạt, thời mắc bệnh
Can phong sán, sắc thời bệnh tích, thỉnh thoảng gân rút, và đau mắt [6].
Aáy cho nên: khí
mùa Xuân ở Kinh mạch, khí mùa Hạ ở Tôn lạc, khí mùa Trường hạ ở Cơ nhục, khí
mùa Thu ở Bì phu, khí mùa Đông ở trong Cốt tủy [7].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết
nguyên nhân ra làm sao? [8]
Mùa Xuân, là thời
kỳ khí trời mới mở ra, khí đất mới phát tiết, váng mỡ, giá tan, thủy lưu hành,
kinh thông lợi. Cho nên khi người ở trong mạch. Mùa Hạ, kinh đầy, khí ràn, vào
Tôn lạc để tiếp nhận lấy huyết, bì phu do đó được đầy dặc, mùa Trường hạ kinh
lạc đều thịnh, do bên trong tiết vào cơ nhục, mùa Thu, khí trời mới thâu lễm,
tấy lý vít lấp, bì phu khô dẳng, mùa Đông che giấp huyết khí ở bên trong, bám
liền vào cốt tủy, để lại giao thông với 5 Tàng [9].
Vậy nên, tà khí
thường theo khí huyết của con người ở bốn mùa để thừa cơ vào “Khách”. Nhưng đến
sự biến hóa thời thật khó mà đo lường. Dù sao cũng phải thuận theo ở Kinh khí
để dùng phép thích, nếu tích trừ được tà khí, thời loạn khí sẽ không sinh ra
được.
Hoàng Đế hỏi:
Thích trái với
bốn mùa, mà sinh loạn khí, bệnh trạng như thế nào? [11]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mùa Xuân mà thích
ở Lạc mạch (xuân khí ở Kinh mạch, mà thích Lạc mạch, là trái), huyết khí sẽ ràn
ra ngoài, khiến người thiểu khí, mùa xuân mà thích ở cơ nhhục, huyết khi sẽ
vòng đi ngược, khiến người thượng khí, mùa xuân, mùa Xuân mà thích ở Cân cốt,
huyết khí sẽ bám vào trong, khiến người phúc trướng [12].
Mùa Hạ mà thích ở
Kinh mạch (mùa Hạ huyết khí đã ra ngoài Tôn lạc), huyết khí sẽ bị kiệt, khiến
người rã rời, mùa Hạ mà thích ở Cơ nhục, huyết khí sẽ lộn vào trong, khiến
người hay khủng, mùa Hạ mà thích ở cân cốt, huyết khí sẽ nghịch lên, khiến
người hay nóä [13].
Mùa thu mà thích
ở Kinh mạch, huyết khí sẽ ngược lên, khiến người hay quên, mùa Thu thích ở Lạc
mạch, khiến khí không dẫn được ra bên ngoài, khiến người nằm không muốn cựa,
mùa Thu mà thích ở cân cốt, huyết khí sẽ tan rã ở bên trong, khiến người rét run
[14].
Mùa Đông mà thích
ở Kinh mạch, huyết khí sẽ đều thoát, khiến người mắt trông không tỏ, mùa Đông
mà thích ở Lạc mạch khí bên trong sẽ tiết ra bên ngoài, lưu thành chứng đại tý,
mùa Đông mà thích ở cơ nhục, dương khí sẽ kiệt tuyệt, khiến người hay quên
[15].
Phàm sự thích về
bốn mùa đó, đều gây nên bệnh lớn, không thể theo [16].
Vậy về phép
thích, không biết kinh mạch của bốn mùa, bệnh sẽ sinh ra, nếp lấy thuận làm
nghịch, chính khí sẽ loạn ở bên trong, tà khí và tinh khí sẽ cùng xung đột
nhau. Vậy, tất phải xét rõ chín hậu, khiến cho chính khí không loạn, thời tinh
khí mới không nghịch chuyển mà gây nên bệnh loạn [17].
Hoàng Đế nói:
Thích vào năm
Tàng, nếu trúng Tâm, thời một ngày chết, khi mới phát bệnh sẽ là chứng “ợ”
trúng Can thời năm ngày chết, khi mới phát bệnh sẽ là chứng muốn nói luôn
miệng, trúng Phế thời ba ngày sẽ chết, khi mới phát bệnh sẽ là chứng ho, trúng
Thận sáu ngày chết, khi mới phát, sẽ là chứng hắt hơi và vươn vai trúng Tỳ,
mười ngày chết, khi mới phát sẽ là chứng thốn (nuốt nước miếng). Thích làm
thương đến năm Tàng, tất phải chết, mà các bệnh lúc mới phát ra đều theo tính
các bả tàng. Nhân đó có thể biết được là bao giờ chết [18].
THIÊN 65 : TIÊU BẢN LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh có tiêu
(ngọn), bản (gốc), thích có nghịch có tùng (thuận), nghĩa đó như thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Về phương pháp
thích, phải phân biệt âm dương, trước sau cùng ứng, nghịch tùng đều hợp, tieuâ
bản cùng thay đổi [2].
Cho nên nói rằng:
có khi ở tiêu, mà cầu nó ở tiêu, có khi ở bản, mà cầu nó ở bản, có khi ở bản mà
cầu nó ở tiêu, có khi ở tiêu mà cầu nó ở bản [3].
Cho nên về phương
pháp điều trị, có khi lấy ở tiêu mà được, có khi lấy ở bản mà được, có khi
nghịch thủ mà được, có khi tùng thủ mà được [4].
Vậy nếu biết
nghịch với tùng đó là chính pháp không còn gì hơn, biết được tiêu bản muôn làm
muôn đứng, không biết tiêu bản, làm càn ra chi...[5]
Nói về cái đạo âm
dương, nghịch tùng, và tiêu bản... mới nghe nhỏ, mà sau thật lớn, nói một điều
mà biết được cái hại của trăm bệnh [6].
Ít mà là nhiều,
nóâng mà là sâu, có thể nói một mà biết được trăm [7].
Do nóâng mà biết
được sâu, xét gần mà biết được xa. Nói tiêu với bản, không nên tương phản [8].
Trị “phản” là
nghịch, trị “đắc” là tùng.Trước mắc bệnh mà sau nghịch, trị ở bản; trước nghịch
mà sau mắc bệnh, trị ở bản [9]. Trước hàn mà sau sinh bệnh, trị ở bản, trước
mắc bệnh mà sau sinh hàn, trị ở bản [10]. Trước nhiệt mà sau mắc bệnh, trị ở
bản, trước nhiệt mà sau xin trung mãn, trị ở tiêu [11]. Trước mắc bệnh mà sau
tiết tả, trị ở bản, trước tiết tả mà sau thêm bệnh khác, trị ở bản, hãy điều
hòa trước đã, rồi hãy trị bệnh khác [12]. Trước mắc bệnh mà sau sinh chứng
phiền tâm, trị ở bản. Bởi ở trong thân thể con người, có khách khí, lại có đồng
khí [13]. Tiểu, đại không lợi, trị ở tiểu, tiểu, đại lợi, trị ở bản [14]. Bệnh
phát sinh mà hữu dư, bản mà là tiêu, trước hãy trị bản, rồi mới trị tiêu bệnh
phát sinh mà bất túc, tiêu mà là bản, trước hãy trị tiêu, rồi mới trị bản [15].
Cẩn thận xét xem “gian” hay “Thậm”, lấy ý của mình để điều trị. Nếu “gian” thời
tính hành, “thậm” thời độc hành. Tỉ như: trước tiểu, đại không lợi, mà rồi mới
sinh bệnh khác, phải trị ở bản [16].
Bệnh có tương
truyền, tỉ như Tâm bệnh, trước Tâm thống qua một ngày thời phát chứng Khái, qua
ba ngày Hiếp chi thống: qua năm ngày vít lấp không thông, thân đau mình nặng,
qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về nửa đêm, mùa Hạ chết về đúng
trưa ( [17]
Bệnh ở Phế, suyễn
khái, qua ba ngày mà hiếp chi mãn và thống, lại qua một ngày mà thân nặng mình
đau, lại qua năm ngày mà trướng. Lại qua mười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa
Đông chết về lúc mặt trời lặn, mùa hạ chết về lúc mặt trời mọc [18]
Bệnh ở Can, đầu
váng mắt hoa, Hiếp chi mãn, qua ba ngày, mình nặng, thân đau, qua năm ngày, sẽ
phát trướng, lại qua ba ngày, yêu, tích và thiếu phúc đau, ống chân nhức, lại
qua ba ngày không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về lúc mặt trời lặn, mùa Hạ chết
về sáng sớm [19].
Bệnh ở Tỳ, thân
đau, mình nặng. Qua một ngày mà Trướng, qua hai ngày, thiếu phúc, yêu, tích
đau, xương ống chân nhức, qua ba ngày, bối, lữ và cân thống, tiểu tiện bế, qua
mười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông, chết về lúc người đi ngủ yên; mùa Hạ,
chết về lúc nửa buổi [20].
Bệnh ở Thận,
Thiếu phúc và yêu, tích thống, xương ống chân, rức, qua ba ngày, bối, lữ, cân
thống, tiểu tiện bế, qua ba ngày, phúc trướng, qua ba ngày lưỡng hiếp chỉ
thống, lại qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết Mùa Đông, chết về lúc sáng rõ, mùa
Hạ, chết về lúc tối đã lâu [21].
Bệnh ở Vị, trướng
mãn, qua năm ngày, thiếu phúc và yêu tích thống, xương ống chân nhức; qua ba
ngày, bối, lữ, cân thống, tiểu tiện bế, qua năm ngày thân thể nặng nề, qua sáu
ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa đông chết về nửa đêm, mùa Hạ chết về xế chiều
[22].
Bệnh ở Bàng
quang, tiểu tiện bế; qua 5 ngày, Thiếu phúc trướng, yêu tích thống, xương ống
chân nhức, qua một ngày, phúc trướng, lại qua một ngày thân thể thống, lại qua
hai ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông, chết về gà gáy, mùa Hạ, chết về chiều
tà [23].
Các bệnh ở trên
do sự “thắng, khắc” mà truyền đều có cái trường hợp chóng chết, dù có phép
thích cũng không sao cứu chữa được. Hoặc tương truyền đến cách một Tàng, thời
thôi, không truyền sang Tàng khác nữa, như thế mới có thể thích. Tỉ như: Tâm
bệnh truyền Can, Can bệnh truyền tỳ, đó là con đi lấn mẹ... Đến Can Tàng, Tỳ
Tàng thời thôi, không lại do sự “thắng, khắc” để truyền sang Tàng khác. Như thế
mới có thể dùng phép thích. Lại tỉ như: Tâm bệnh truyền Tỳ, Phế bệnh truyền
Thận, đó là mẹ đi lấn con, nhờ được cái sinh khí của mẫu tàng, còn là chứng
không đến nóãi chết. Lại như Tâm bệnh truyền Thận, Phế bệnh truyền tâm, Can
tàng truyền Phế v.v... Đó là do nơi “sở bất thắng” mà lại, bệnh nhẹ, cũng có
thể dùng phép thích [24].
Không có nhận xét nào: