THIÊN 66 : THIÊN NGUYÊN KỶ ĐẠI LUẬN
Hoàng Đế hỏi
rằng:
Trời có năm hành,
trị năm vị, để sinh ra hàn, thử, táo, thấp và phong (1) Người có năm Tàng, hóa
sinh năm khí, để sinh ra hỷ, nóä, ưu, tư, khủng (2). Trên Luận nói: năm vận
cùng nóái, đều có chủ trị; cứ chọn một năm, “chu” mà lại bắt đầu... Tôi đã hiểu
lẽ đó rồi. Xin cho biết cái “hậu” của tam âm, tam dương, tương hợp như thế nào
(3)? [1]
1) Năm hành của
trời tức là năm khí: Đan là đỏ, Kiềm là vàng. Thương là xanh, Tố là trắng,
Huyền là đen, Năm vị, tức là vị của năm phương, mà cũng tức là năm hành của
đất. Hàn, thử, táo, thấp, phong tức là 6 khi của trời. Ý đây nói: năm khí của trời,
hợp với sự phối hợp của mười Can, để hóa sinh ra năm hành của đất, năm hành của
đất lại sinh ra 6 khi của trời.
2) Năm Tàng, tức
là do năm hành sinh ra. Khí của năm hành tức là: phong, nhiệt, thấp, táp, hàn.
Hỳ nóä, ưu, tư, khủng là “thần chí” của năm Tàng.
Ngẫm như: ở giờ
là khi, ở đất thành hình, hình khi cùng cảm mà muôn vật hóa sinh. Con người nhờ
năm hành của đất để gây nên thân hình... Do cái năm Tàng có hình để hóa sinh ra
năm khí và năm chí... Mà lại thông với thiên khí.
3) “Trên luận”,
tức là nói những bài Lục tiết Tàng tượng v.v... Năm vận là: Năm Giáp, Kỷ thuộc
về Thổ vận, năm Aát, Canh thuộc về Kim vận, năm Bính, Tân thuộc về Thủy vận,
năm Đinh Nhâm thuộc về Mộc vận, năm Mậu, Quý thuộc về hỏa vận. Về tam âm, tam
dương thời, hai năm Tý Ngọ, Thiếu âm làm chủ, hai năm Sửu, Vị (Mùi), Thái âm
làm chủ, hai năm Dần, Thân, Thiếu dương làm chủ, hai năm Mão, Dậu, Dương minh
làm chủ, hai năm Thìn, Tuất, Thái dương làm chủ, hai năm Tỵ, Hợi, quyết âm làm
chủ.
Quỷ Du Khu vái
tay, cúi đầu mà thưa rằng:
Năm vận, âm dương
là đạo của trời. Nó là cương kỷ của muôn vật, cha mẹ của biến hóa, gốc ngọn của
sinh sát, và là cái “phủ” của một sự thần minh đó (1) [2].
Vật sinh ra gọi
là hóa, vật đến gọi là biến, âm dương khôn lường, gọi là thần; thần dụng vô
phương gọi là thánh (2) [3].
Cái công dụng của
sự biến hóa, ở trời gọi là huyền (1), ở người gọi là đạo (2), ở đất gọi là hóa
(3). Do đó hóa sinh ra năm vị (4). Đạo sinh ra trí (5). Huyền sinh ra thần (6).
Thần ở trời là
phong, ở đất là mộc, ở trời là nhiệt, ở đất là hỏa, ở trời là thấp, ở đất là
thổ, ở trời là táo, ở đất là kim, ở trời là hàn, ở đất là thủy. Cho nên ở trời
là khí, ở đất thành hình. Hình, khi cùng cảm, muôn vật do đó mà sinh ra (1)
[5].
Vậy nên, trời đất
đó là trên dưới của muôn vật, tả hữu đó là đường lối của âm dương (2), thủy hỏa
đó là triệu chứng của khí âm dương (3); Kim, mộc đó là chung thủy của sự sinh
thành (4).
Khí có nhiều, ít,
hình có thịnh suy. Do sự trên dưới cùng cảm triệu, mà cái khí thái quá hay bất
cập càng được rõ ràng.
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết năm
vận chủ thời, như thế nào? (1) [8].
Qủy Du Khu thưa
rằng:
- Năm khí vận
hành, đều chọn cơ nhật (2), không những chủ thời mà thôi [9].
Xin cho biết rõ..
[10].
Thần xét trong
Đại thủy Thiên nguyệt Sách văn chép rằng: “Thái hư rộng thẳm, gây nên hóa
nguyện, muôn vật gây lúc đầu năm vận chọn chu thiên (3); khí tán ra chân linh,
tổng thống cả Khôn nguyên (4); chín sao treo sáng, bảy Diệu vòng quanh (5) rằng
âm, rằng dương, rằng như, rằng cương (6); u hiển đã xếp hàn, thử, thỉ, trương
(7); sinh sinh, hóa hóa, phẩm vật phô bày (8)... Đạo lý đó, truyền tới thần, đã
mười đời nay...
Hoàng Đế hỏi:
- Khí có nhiều
ít, hình có thịnh suy, là thế nào? [12].
Qủy Du Khu thưa
rằng:
Khí của âm,
dương, có kinh nhiều, có kinh ít, nên gọi là tâm âm, tam dương. “Hình có thịnh
suy” là nói về chủ trị của năm hành có thái quá và bất cập (1). Cho nên lúc bắt
đầu; do hữu dư mà đi, bất cập sẽ theo; do bất túc mà đi, hữu dư sẽ theo. Biết
được nghinh (tức đi) và tùy (tức theo), thời cái khi thái quá hay bất cập có
thể dự biết được (2) [13].
Ưùng với trời là
Thiên phù, ứng với năm là Tuế trị; “Tam hợp’ sẽ trị (3) [14].
Hoàng Đế hỏi:
Trên dưới cùng
cảm triệu, là nghĩa thế nào? [15]
Quỷ Du Khu thưa
rằng:
- Hàn, thử, táo,
thấp, phong, hỏa... Thuộc về Aâm Dương của trời. Tam âm, tam dương, thượng
phụng (như ứng theo) với nó. Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy, Hỏa... Thuộc về Aâm
Dương của đất, sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng ứng theo với nó (1) [16].
Trời có Aâm Dương
để sinh, khí Aâm để trưởng, đất lấy khí Dương để sái (giảm bớt), khí Aâm để
tàng (2) [17].
Trời có Aâm
Dương, đất cũng có Aâm Dương, Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy, Hỏa... Đó là Aâm Dương
của đất, chủ về sinh, trưởng hóa, thâu, tàng. Cho nên trong Dương có Aâm, trong
Aâm có Dương (3) [18].
Vì vậy, muốn biết
Aâm Dương của trời đất, ứng với khí của trời, động mà không ngừng, cho nên cứ
hết 5 năm thời “hữu thiên”; ứng với khí của đất, tĩnh mà giữ vị, cho nên cứ hết
sáu năm lại hoàn hội (4) [19].
Động, tĩnh cùng
triệu, trên dưới cùng là, Aâm Dương cùng thay đổi, sự biến hóa do đó mà sinh ra
(5) [20].
Hoàng Đế hỏi:
Trên, dưới, chu,
kỷ, có số nhất định chăng ? [21]
Qủy Du Khu thưa
rằng:
Trời lấy số “sáu”
làm tiết, đất lấy số “năm” làm chết. Chu thiên khí thời cứ 6 năm là một lượt
chung địa kỷ thời cứ 5 năm là một chu. Do đó, quân hỏa được sáng tỏ, tướng hỏa
được yên ngôi (1) [22].
“Năm” với “sáu”
cùng hợp, vậy nên cứ 720 khí làm một kỷ. Phàm 30 năm, cộng được 1440 khí. Tức
60 năm là một “chu” Bất cập hay thái quá, đều do đó có thể thấy rõ được (2)
[23].
Hoàng Đế hỏi:
Theo lời nói của
phu tử, trên rõ hết thiên khí, dưới rõ hết địa kỷ, thật là đầy đủ. Nhưng tôi
muốn nhờ đó trước để trị dân, rồi đến trị thân, khiến trăm họ hiểu biết, trên
dưới cùng thân, đức trạch thấm nhuần, con cháu hết lo, truyền mãi về sau không
bao giờ cùng... Vậy xin cho biết thêm… [24]
Qủy Du Khu nói:
Cái định số của
sự thái quá hay bất cập, rất là cơ vi. Nhưng khí tới có thể nhận thấy, khí đi
có thể theo dõi. Vậy phải kính cẩn, không được coi thường, nếu trái lẽ đó, sẽ
bị tai ương… [25]
Hoàng Đế nói:
- Khéo nói về
trước, tất hiểu sau, đã hiểu nơi gần, tất rõ chỗ xa. Chí số tế vi đến thế mà
suy diễn không nhẩm, thật là minh triết lắm rồi. Vậy xin phu tử giảng giải cho
có điều lý, giảm ước mà không thiếu, dễ dàng mà khó quên... [26]
Qủy Du Khu nói:
Tôi được nghe, về
năm Giáp, Kỷ, Thổ vận làm chủ, về năm Aát, Canh, Kim vận làm chủ, về năm Bính,
Tân, Thủy vận làm chủ, về năm Đinh Nhâm, Mộc vận làm chủ; về năm Mậu Qúi, Hỏa
vận làm chủ.. [27].
Hợp với tam âm,
tam dương như thế nào? [28]
Về năm, Tý, Ngọ,
trên thấy Thiếu âm, về năm Sửu, Vị (Mùi) trên thấy Thái âm, về năm Dần, Thân,
trên thấy Thiếu dương về năm Mão, Dậu trên thấy Dương minh, về năm Thìn, Tuất
trên thấy Thái dương, về năm Tỵ, Hợi, trên thấy quyết âm... Vậy Thiếu âm đó là
Tiêu, mà quyết âm đó là Chung (cuối cùng) (1) [29].
Ở trên quyết âm,
phong khí làm chủ, ở trên Thiếu âm, nhiệt khí làm chủ, ở trên Thái âm, thấp khí
làm chủ, ở trên Thiếu dương, Tướng hỏa làm chủ, ở trên Dương minh, táo khí làm
chủ, ở trên Thái dương, hàn khí làm chủ. Đó tức là Bản và gọi là “lục nguyên”
(2) [30].
Hoàng Đế nói:
Đạo rất huyền ảo,
bàn rất rõ ràng, xin ghi vào Ngọc bản, cất vào Kim qũi và đặt tên là: Thiên
Nguyên kỷ.
THIÊN 67 : NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN
Hoàng Đế ngồi ở
nhà Minh Đường, mới bắt đầu chỉnh lại thiên cương, rộng xem tám phương (cực),
suy xét năm thường (1). Mời Thiên sư (Kỳ Bá) mà hỏi rằng:
Tôi nghe phu tử
cho biết cái số về “ngũ vận”, chỉ có cái nghĩa là năm khí chủ về các năm mà
thôi. Giờ Qủy Du Khu lại nói với tôi rằng” Thổ chủ về Giáp, Kỷ, Kim chủ về Aát,
Canh, Thủy chủ về Bính, Tân, Mộc chủ về Đinh, Nhâm, Hỏa chủ về Mậu Qúi... Và ở
trên Tý, Ngọ, Thiếu âm làm chủ, ở trên Sửu, Vị (Mùi), Thái âm làm chủ, ở trên
Dần, Thân, Thiếu dương làm chủ, ở trên mão, Dậu, Dương minh làm chủ, ở trên
Thìn, Tuất, Thái dương làm chủ, ở trên Tỵ, Hợi, Quyết âm làm chủ... So với âm
dương của năm vận sáu khí không hợp, là sao vậy? [1].
Kỳ Bá thưa rằng:
Quỷ Du Khu nói
như vậy là hiểu cái đại âm dương của trời đất đó. Phàm về “số” mà có thể đếm
được cái “sở hợp” mà thôi. Đến như âm dương của trời đất, đếm có thể được mười,
mà suy ra có thể thành trăm; đếm có thể được nghìn, mà suy ra có thể thành
vạn... Vậy không thể nào lấy “số” để suy mà chỉ có thể lấy “hình tượng” để ví
(1) [2].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết lúc
đầu ra làm sao? [3].
Kỳ Bá thưa rằng:
Thần xem ở Thái
thủy Thiên nguyên sách có chép rằng:
Cái khí của Đan
thiên, qua ở Mậu phận thuộc sao Ngưu, Nữ cái khí của Kiền thiên, qua ở Kỷ phận,
thuộc sao Tâm, Vỹ, cái khí Thương thiên, qua ở các sao Nguy, Thất, Liễu, Quỷ,
cái khí của Huyền thiên, qua ở các sao Trương, Dực, Lâu, Vị... Như nói về Mậu
Kỷ phận, tức là khoảng sao Khuê, Bích, Giác, Chẩn, mà là cửa ngõ của trời đất.
Tóm lại, bắt đầu của sự biến hóa, đạo do đó mà sinh ra, cần phải hiểu biết lắm
mới được (2) [4].
Hoàng Đế hỏi:
Luận nói: trời
đất là trên dưới của muôn vật, tả hữu là đạo lộ (đường lối) của âm dương, xin
cho biết rõ nghĩa đó ra sao?(1) [5]
Kỳ Bá thưa rằng:
Luận nói về trên
dưới, là trên dưới của từng năm, và âm dương ở về nơi nào (2) [6].
Nói về tả hữu:
Phàm trên thấp Quyết âm, thời bên tả là Thiếu âm, bên hữu là Thái dương, thấy
Thiếu âm, thời bên tả là Thái âm, bên hữu là Quyết âm; thấy Thái âm, thời bên
tả là Thiếu dương, bên hữu là Thiếu âm, thấy Dương minh, thời bên tả là Thái
dương, bên hữu là Thiếu dương; thấy Thái dương, thời bên tả là Quyết âm, bên
hữu là Dương minh... Đó là ngoảnh mặt về phương bắc để định rõ ngôi mà nói (3)
[7].
Hoàng Đế hỏi:
Thế nào là
dưới?[7]
Kỳ Bá thưa rằng:
Quyết âm ở trên
thời Thiếu dương ở dưới, tả là Dương minh, hữu là Thái âm. Thiếu âm ở trên thời
Dương minh ở dưới tả là Thái dương, hữu là Thiếu dương, Thái âm ở trên thời
Thái dương ở dưới, Tả là Quyết âm, hữu là Dương minh, Thiếu dương ở trên thời
Quyết âm ở dưới, tả là Thiếu âm, hữu là Thiếu dương; Dương minh ở trên thời
thời Thiếu âm ở dưới, tả là Thiếu dương, hữu là Thiếu âm... Đó tức là cái
ngoảnh mặt về phương Nam để ấn định bộ vị, còn sự nhận thấy là do người hướng
về Bắc để xem vậy (1) [8]
Trên dưới cùng
gặp, hàn thử cùng lâm (tới); khi tương đắc thời hòa, không tương đắc thời bệnh
(2) [9].
Hoàng Đế hỏi:
Khí không tương
đắc mà bệnh, là thế nào? [10]
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó là vì lấy dưới
để lâm lên trên, không đúng với địa vị, nên sinh bệnh (3) [11].
Động tĩnh như thế
nào ? [12]
Ở trên thời hữu
hành (đi vòng sang bên hữu), ở dưới thời tả hành... tả hữu đi hết một “chu”,
còn dư, thời lại hội (4). [13]
Hoàng Đế hỏi:
Tôi nghe Qủy Du
Khu nói: “Ưùng với đất thời tĩnh”, giờ Phu tử lại nói: “ở dưới thời tả hành...”
vậy thế là nghĩa sao? [14]
Kỳ Bá thưa rằng:
Trời, đất, động,
tĩnh, năm hành thiên, phục. Tuy đời trước của Qủy Du Khu cũng chỉ biết được
động tượng của trời mà thôi. Còn về “tĩnh hình” của dất thời vẫn chưa rõ (1)
[15]
Cái công dụng của
sự biến hóa, trời bày ra tượng, đất gây nên hình, “thất diệu” kinh vĩ ở khoảng
Thái hư, ngũ hành chương minh ở trên mặt đất. Đất, cốt để chở mọi hình loại đã
sinh thành; Thái hư, cốt để bày cái tinh khí hiển hiện ở trên trời. Sự động của
hình với tinh, cũng như gốc rễ đối với cành là. Ngửa lên xem tượng, dù xa cũng
có thể biết được (2) [16].
Hoàng Đế hỏi:
Đất, ở về phần
dưới, phải không? [17]
Kỳ Bá thưa rằng:
Đất sở dĩ ở dưới
người, chính vì nó ở trong khoảng Thái hư đó [18].
Có nương tựa vào
đâu không? [19]
Chỉ do “đại khí”
mang lên đó thôi (3) [20].
Nhờ khí táo để
làm cho can (khô), nhờ khí thử để làm cho chưng (như nung, nấu, hấp), nhờ khí
phong để làm cho động, nhờ khí thấp để làm cho nhuận, nhờ khí hỏa để làm cho
kiên (cứng, rắn lại), nhờ khí hỏa để làm cho ôn, cho nên khí phong hàn ở dưới,
khí táo nhiệt ở trên, khí thấp ở khoảng giữa... Sáu khí đó du hành khắp ở trên
và dưới, do đó mới thành được sự sinh hóa (1) [21].
Cho nên khí táo
thắng thời đất “can”, khí thử thắng thời đất nhiệt, khí phong thắng thời đất
động, khí thấp thắng thời đất lầy (nê), khí hàn thắng thời đất nứt (lạt), khí
hỏa thắng thời đất cố (rắn bền) (2) [22].
Hoàng Đế nói:
Khí của trời đất,
lấy gì để “bậu” được? [23]
Kỳ Bá thưa rằng:
Khí của trời đất,
và cái biến chuyển của thắng phục, không hình ra ở “chẩn” (tức chẩn mạch). Mạch
pháp nói rằng “sự biến của trời đất, không thể chẩn ở mạch...” Tức là nghĩa đó
(1) [24].
Hoàng Đế hỏi:
Gián khí như thế
nào? [25]
Kỳ Bá thưa rằng
Tùy cái “sở tại”
của khí, phải dự kỳ ở hai bên tả hữu (2) [26].
Hoàng Đế hỏi:
Dự kỳ như thế
nào? [27].
Kỳ Bá thưa rằng:
Theo với khí thời
hòa trái với khí thời bệnh (3). Không đúng với địa vị cũng sinh bệnh (4): thay
đổi mất địa vị cũng bệnh (5); bỏ mất cái địa vị nên giữ thời nguy (6); Xích với
thốn trái nhau thời chết (7); Aâm Dương giao nhau cũng chết (8); trước hãy lập
lấy năm, để biết là khí gì và tả hữu tương ứng như thế nào, rồi sau mới có thể
nói được đến thử, sinh, nghịch, thuận (9) [28].
Hoàng Đế hỏi:
Hàn, thử, thấp,
táo, phong, hỏa... Hợp với người như thế nào Đối với muôn vật, sao mà hóa sinh
được? [29].
Kỳ Bá thưa rằng:
Đông phương sinh
ra phong, phong sinh hành mộc, mộc sinh ra vị toan (chua), toan sinh ra Can,
Can sinh ra Cân, Cân sinh ra Tâm (1), nó ở trời là Huyền, ở người là đạo, ở đất
là hóa, do hóa mà sinh ra năm vị. Đạo sinh ra trí, huyền sinh ra thần, hóa sinh
ra khí. Thần, ở trời là Phong, ở đất là Mộc, ở thể là Cân, ở khí là Nhu (mềm
mại), ở Tàng là Can (2).
Tính của nó là
huyên (ấm áp); đức của nó là hòa, công dụng của nó là động, sắc của nó là
thương (xanh); về sự hóa của nó là vinh (tươi tốt). Thuộc về trùng là giống có
mao (lông), chính của nó là tán (sơ tán), bệnh của nó là tuyên phát, sự biến
của nó là tồi lạp (bẻ gãy); tai sảnh của nó là vẫn (rơi rụng), vị của nó là
toan, chí của nó là nóä. Do nóä sẽ làm thương Can, nhờ “bi” sẽ thắng nóä, phong
làm thương Can; táo sẽ thắng phong, toan làm thương Cân, tân sẽ thắng toan [30]
Nam phương sinh
nhiệt, nhiệt sinh ra hành hỏa, hỏa sinh ra vị khổ, khổ sinh ra Tâm, Tâm sinh ra
huyết, huyết sinh ra Tỳ. Nó ở trời là nhiệt, ở đất là hỏa, ở thể là mạch, ở khí
là tức (hơi thở), ở Tàng là Tâm. Tính của nó là thử (nắng, nóng) đức của nó là
hiển (tỏ tường, rõ ràng): công dụng của nó là táo (nóng nảy, vội vàng); sắc của
nó là Xích (đỏ), hóa của nó là mậu (tốt, về mùa Hạ cây cỏ rậm rạp). Thuộc loại
trùng là loài Vũ (lông cánh), chính của nó là Minh (sáng); lệnh của nó là uất chưng
(nung, nấu, nóng, bức); biến của nó là viêm thước (bốc cháy); tai sảnh của nó
là phần, bính (đốt; viêm thước, phần, bính đều là hình dung cái khí cực nhiệt);
vị của nó là khổ, chí của nó là hỷ. Hỷ làm thương Tâm, khủng sẽ thắng được hỷ,
nhiệt làm thương khí, hàn sẽ thắng được nhiệt, khổ làm thương khi, hàn sẽ thắng
được khổ [31].
Trung ương sinh
ra thấp, thấp sinh ra hành thổ, thổ sinh ra vị Cam; cam sinh ra Tỳ, Tỳ sinh ra
nhục. Nhục sinh ra Phế. Nó ở trời là thấp, ở đất là thổ, ở thể là Nhục, ở khí
là xung (đầy); ở Tàng là Tỳ. Tính của nó là tĩnh; đức của nó là Nhu (ẩm ướt);
công dụng của nó là hóa, sắc của nó là hoàng (vàng); hóa của nó là doanh (đầy,
cũng như xung), về trùng thuộc loại Khỏa (loài trùng có nhiều chất thịt, do đất
sinh ra); chính của nó là yên tĩnh, lệch của nó là râm hội (lở nát, khi thấp
nhiều quá)... Vị của nó là Cam; chí của nó là tư (nghĩ, nhớ). Tư làm thương Tỳ,
nóä sẽ thắng được tư, thấp làm thương nhục, phong sẽ thắng được thấp; cam làm
thương Tỳ, toan sẽ thắng được Cam [32].
Tây phương sinh
ra táo, táo sinh ra hành kim, kim sinh ra tân, tân sinh ra Phế, Phế sinh ra bì
mao, bì mao sinh ra Thận. Ở trời là táo, ở đất là kim, ở thể là bì mao, ở khi
là thành; ở Tàng là Phế. Tính của nó là lương (mát); đức của nó là thanh (trong
trẻo); công dụng của nó là trắng; hóa của nó là liễm (thâu, liễm lại) thuộc về
trùng là loài giới (loài có vỏ cứng bên ngoài như trai, sò) chính của nó là
Kinh (cứng cáp); lệch của nó là vụ lộ (mù, móc); biến của nó là túc sái, tai
sảnh của nó là úa rụng; vị của nó là tân, chí của nó là ưu. Ưu làm thương Phế,
hỷ sẽ thắng ưu; nhiệt làm thương bì mao, hàn sẽ thắng nhiệt, tân và thương bì
mao, khổ sẽ thắng tân (1) [33].
Bắc phương sinh
hàn, hàn sinh ra hành Thủy, Thủy sinh ra vị hàm, hàm sinh ra Thận, Thận sinh ra
cốt tủy, tủy sinh ra Can. (cứng), ở Tàng là Thận. Tính của nó là lâm (rét,
run); đức của nó là hàn, công dụng của nó là (...? nguyên bản khuyết một chữ),
sắc của nó là Hắc (đen); tà của nó là túc (nghiêm ngặt) về trùng thuộc loại lân
(loài có vảy); chính của nó là Tĩnh (yên lặng) lệnh của nó là ) (...? nguyên
bản khuyết một chữ). Nó biến là ngưng tật (rét buốt), tại sảnh của nó là băng
hộc (mưa đá), vị của nó là hàm, chí của nó đều có chủ trị về từng mùa. [34].
Là Khủng, Khủng
thương thận. Tư thắng khủng. Hàn làm thương huyết táo thắng hàn. Vị mặn làm
thương huyết. Vị ngọt thắng vị mặn. Vị trí của Ngũ khi đã được nói ở trước đây.
Nếu không có tà khi thì nó sẽ ở chính vị.
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh biến đổi như
thế nào?
Kỳ Bá thưa:
Khi tương đắc thì
nhẹ, khi không tương đắc thì nặng, thì theo tà, Phụ tà thì sợ, Hoàng đế khen
phải.
Hoàng Đế hỏi:
Chủy tuế như thế
nào?
Kỳ Bá thưa:
-
Khê
có dư thì sẽ chế ngự, sinh ra thắng mà ức hiếp, không thắng thì không cùng
chung, không thắng, không ức hiếp mà đại sao thừa lân. Thắng nhẹ mà ức hiếp, bị
ức hiếp.
Thiên 68 : LỤC VI CHỈ ĐẠI LUẬN
Hoàng Đế hỏi
rằng:
Xa thẳm thay cái
đạo của trời! Như đón mây nóåi, như trông vực sâu. Vực sâu còn có thể đo lường,
mây nóåi ai biết đâu là cùng cực! Phu tử thường nói: “phải tuân đạo trời”, lòng
tôi ghi nhớ. Nhưng cái nguyên lý như thế nào, xin cho biết rõ.. [1].
Kỳ Bá thưa ràng:
Muốn rõ thiên
đạo, cần phảibiết cái sự tuần tự của trời và sự thịnh suy của thời bệnh [2].
Xin cho biết cái
tiết “lục lục” của đạo trời, và sự thịnh suy như thế nào? [3].
Trên dưới có
“vị”, tả hữu có “kỷ”. Cho nên bên hữu Thiếu dương, Dương minh chủ trị [4]. bên
hữu Dương minh, Thái dương chủ trị [5]; bên hữu Thái dương, Quyết âm chủ trị
[6]; bên hữu Quyết âm, Thiếu âm chủ trị [7]; bên hữu Thiếu âm, Thái âm chủ trị
[8]; bên hữu Thái âm, Thiếu dương chủ trị [9]; Đó tức bảo là “Tiêu” chủa khi do
Nam diện mà xem [10]. Cho nên nói: “nhận sự thuần tự của trời, để biết cái thời
bệnh thịnh suy” vậy theo sự vận hành của nhật nguyệt, để định cái vị của hai
khi, chính nam diện để xem... tức là nghĩa đó [11].
Ở trên Thiếu
dương, hỏa khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Quyết âm [12]. Ở trên Dương
minh, táo khí chủ trị, khoảng “trung” (giữa) sẽ thấy Thái âm [13]. Ở trên Thái
dương, hàng khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Thiếu âm [14]. Ở trên Quyết âm,
phong khí chủ trị ở khoảng “trung” sẽ thấy Thiếu dương [15]. Ở trên Thiếu âm,
nhiệt khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Thái dương [16].Ở trên Thái âm, thấp
khí chủ trị, khoảng “trung” sẽ thấy Thái dương, ở trên Thái âm, thấp khí chủ
trị, khoảng “trung” sẽ thấy Thái dươnh [17]. Ở trên Thái âm, thấp khí chủ trị,
khoảng “trung” sẽ thấy Dương minh [18].
Aáy bảo là “bản”
đó. Ở dưới bản, tức là “trung” mà sẽ thấy, dưới chỗ “thấy” đó, tức là tiêu của
khí (1) [19].
Bản, tiêu không
giống, khí ứng khác tượng (2) [20].
Hoàng Đế hỏi
rằng:
Về khí, có khi
nên đến mà đến, có khi nên đến mà không đến, có khi đến mà thái quá, là thế
nào? [21].
Kỳ Bá thưa rằng:
Nên đến mà đến là
hòa; nên đến mà không đến, là “lai khí” bất cập; chửa nên đến mà đã đến, là
“lai khí” hữu dư (1) [22].
Hoàng Đế hỏi:
Nên đến mà không
đến, chửa nên đến mà đã đến. Như thế nào? [23].
Kỳ Bá thưa rằng:
Đúng (ứng) là
thuận, trái là nghịch, nghịch thời sinh biến, biến thời bệnh (2) [24].
Thế nào là đúng?
Xét ở vật loại
sinh ra biết là đúng, xét ở khi mạch, biết là đúng (3) [26].
Hoàng Đế hỏi:
Địa lý ứng với sáu
tiết, khí vị như thế nào? [27].
Kỳ Bá thưa rằng:
Bên hữu Hiển minh,
là vị của quân hỏa. Bên hữu quân hỏa, lui một bộ, thời Tướng hỏa chủ trị, lại
đi một bộ, thời thổ khí chủ trị, lại đi một bộ, thời kim khí chủ tri, lại đi
một bộ, thời thủy khí chủ trị, lại đi một bộ, thời mộc khí chủ trị, lại đi một
bộ, thời quân hỏa chủ trị (1).
Ở dưới Tướng hỏa,
thủy khí “thừa” theo (thừa có nghĩa như thừa phụng, tuân theo); ở dưới thủy vị,
thổ khí thừa theo, ở dưới thổ vị, phong khí thừa theo, ở dưới phong vị kim khí
thừa theo, ở dưới kim vị, hỏa khí thừa theo, ở dưới quân hỏa, âm tinh thừa theo
[29].
Tại sao vậy [30].
Vì “cang thời hại,
thừa sẽ chế lại”. Có “chế” thời mới sinh hóa. Bên ngoài bày ra thịnh suy, hại
thời thành bại loạn, sinh hóa bệnh lớn (1) [31].
Hoàng Đế hỏi:
Thịnh, suy như thế
nào? [32].
Kỳ Bá thưa rằng:
Không đúng với vị
“tà”, đúng với vị là “chính”: Tà thời biến nhiều, chính thời chỉ “vi” (nhỏ nhẹ)
thôi (1) [33].
Thế nào là đúng với
vị?
Mộc vận mà lâm
Mão, Hỏa vận mà lâm Ngọ, Thổ vận mà lâm Tứ qúi, Kim vận mà lâm Dậu, Thủy vận mà
lâm Tý. Đó tức là tuế hội, và là sinh khi (thứ khi điều hòa...) [34].
Thế nào là không
đúng với vị?
Vì là tuế không
hội (hội tức hợp) (1) [35].
Hoàng Đế hỏi:
Về năm Thổ vận,
trên thấy Thái âm, về năm hỏa vận, trên thấy Thiếu dương, Thiếu âm, về năm Kim
vận trên thấy Dương minh, về năm Mộc vận, trên thấy Quyết âm, về năm thủy vận,
trên thấy Thái dương... Là vì sao? [36].
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó là cái khí tư
thiên cùng với cái khí năm vận, cùng hợp, nên ở Thiên nguyên sách gọi là Thiên
phù (1) [37].
Hoàng Đế hỏi:
Thiên phù với Tuế
hội như thế nào? [38].
Kỳ Bá thưa rằng:
Như vậy gọi là
Thái ất thiên phù...(1) [39].
Qúi, tiện như thế
nào? [40]
Thiên phù như chấp
pháp; tuế hội như hành lệnh. Thái ất, thiên phù như quí nhân (2) [41].
Tà “trúng” vào như
thế nào? [42].
Trúng vào chấp
pháp thời bệnh chóng mà nguy, trúng vào hành lệnh thời bệnh từ từ mà chậm,
trúng vào qúi nhân thời bao bệnh mà chết [43].
Vị thay đổi, thời
như thế nào? [44].
Quân ở vào vị thần
thời thuận, thần ở vào vị quân thời nghịch, nghịch thời bệnh gần mà hại chóng,
thuận thời bệnh xa mà nhẹ... Đó là sự thuận nghịch của hai hỏa... (4)
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết thế
nào là Bộ? [1].
Kỳ Bá thưa rằng:
Mỗi một bộ, tính
được 60 độ, có lẻ. Cho nên cứ 24 bộ, sẽ chứa được “doanh” (đầy đủ) một trăm
khắc mà thành một ngày thừa (1).
Hoàng Đế hỏi:
Sáu khí ứng với sự
biến của năm hành, như thế nào? [48].
Kỳ Bá thưa rằng:
Vệ có chung, thủy,
khí có sơ, trung, thượng, hạ... không giống nhau, nên “xét” cũng phải khác (1)
[49].
Phải xét như thế
nào ? [50].
Thiên khí bắt đầu
từ Giáp, địa khí bắt đầu từ Tý. Tý với Giáo cùng hợp, gọi là “tuế lập”. Phải
“hậu” ở thời, khí mới có thể dự biết được (2) [51].
Hoàng Đế hỏi:
Sáu khí ở trong
một năm trước, sau, sớm, muộn như thế nào? [52].
Kỳ Bá thưa rằng:
Về năm Giáp tý “sơ
chi khí”, số của trời bắt đầu từ thủy hả (nước nhỏ giọt xuống) một khắc, cuối
cùng 87 khắc rưỡi, “nhị chi khí” bắt đầu từ 87 khắc 6 phân, cuối cùng ở 75
khắc, “tam chi khí” bắt đầu từ 76 khắc, cuối cùng 62 khắc rưỡi “tứ chi khí” bắt
đầu là 62 khắc 6 phân, cuối cùng là 50 khắc, “ngũ chi khí” bắt đầu từ 51 khắc,
cuối cùng là 37 khắc rưỡi “lục chi khí” bắt đầu từ 37 khắc 6 phân, cuối cùng là
25 khắc... Đó, là “sơ lục” tính theo cái số của trời vậy (1) [53].
Về năm Aát sửu,
“sơ chi khí” thiên số bắt đầu từ 26 khắc cuối cùng là 12 khắc rưỡi, “nhị chi
khí” bắt đầu từ 12 khắc 6 phân, cuối cùng là thủy hạ 100 khắc, “tam chi khí”
bắt đầu từ một khắc, cuối cùng là 87 khắc rưỡi, “tứ chi khí” bắt đầu từ 87 khắc
6 phân, cuối cùng là 75 khắc, “ngũ chi khí” bắt đầu từ 76 khắc, cuối cùng là 62
khắc rưỡi “lục chi khí” bắt đầu từ 62 khắc cuối cùng là 50 khắc. Đó gọi là “Lục
nhị”, tính theo số của trời vậy (1) [54].
Năm Đinh mão. “sơ
chi khí” bắt đầu từ 76 khắc cuối cùng là 62 khắc rưỡi, “nhị chi khí” bắt đầu từ
62 khắc 6 phân, cuối cùng là 50 khắc, ‘tam chi khí” băt đầu từ 51 khắc, cuối
cùng là 37 khắc rưỡi, “tứ chi khí” bắt đầu từ 37 khắc 6 phân, cuối cùng là 25
khắc, “ngũ chi khí” bắt đầu từ 26 khắc, cuối cùng là 12 khắc rưỡi, “Lục chi khí
“bắt đầu từ 12 khắc 6 phân, cuối cùng là thủy hạ 100 khắc. Đó là khí thứ tự
trong 6 khí, tính theo số của trời vậy (1). Đến năm sau là năm Mậu thìn, “sơ
chi khí” lại bắt đầu khắc thứ nhất. Cứ như thế mãi, hết vòng lại bắt đầu.
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết “tuế
hậu” như thế nào? [57].
Kỳ Bá thưa rằng:
Nhật đi một vòng,
thiên khí bắt đầu từ khắc thứ một. Nhật đi hai vòng, thiên khí bắt đầu từ 26
khắc, Nhật đi ba vòng, thiên khí bắt đầu từ 51 khắc, nhật đi bốn vòng, thiên
khí bắt đầu từ 76 khắc, nhật đi năm vòng, thiên khí lại bắt đầu từ khắc thứ
một. Đó gọi là một kỷ (1) [58].
Vậy nên, về những
năm Dần, Ngọ, Tuất, khí hội giống nhai; những năm mão, Vị (Mùi), Hợi, khí hội
giống nhau, những năm Thì, Thân, Tý, khí hội giống nhau, những năm Tỵ, Dậu,
Sửu, khí hội giống nhau. Cứ như thế, cuối cùng mà lại bắt đầu (2).
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết công
dụng thế nào? [60]
Kỳ Bá thưa rằng:
Nói về trời, phải
cầu ở bản; nói về đất, phải cầu ở vị, nói về người, phải cầu ở khí giao (1)
[61]
Thế nào là Khí
giao? [62]
Cái vị trên dưới,
khí giao ở giữa, tức là nơi ở của người. Cho nên nói: ở trên Thiên khu, thiên
khí làm chủ, ở dưới thiên khí, địa khí làm chủ, trong khoảng khí giao, thời
người theo đó, muôn vật cũng theo đó (2) [63]
Thế nào là sơ và
trung? [64]
Sơ, phàm 30 độ có
lẻ. Trung khí cũng như vậy
Sơ, trung để làm
gì? [66]
Là cốt để chia rẽ
trời và đất [67]
Xin cho biết rõ
[68]
Sơ, thuộc về địa
khí. Trung, thuộc về cả trời và đất (3) [69]
Hoàng Đế hỏi:
Hàn với thấp cùng
ngộ hợp, táo với nhiệt cùng gia lâm, phong với hỏa cũng cùng chủ tuế, như thế
nào? [70]
Kỳ Bá thưa rằng:
Khi có thắng phục.
Thắng, phục gây nên, có đức, có, hóa, có dụng, có biến... Nếu biến thời tà khí
sẽ phạm đến... [71]
Sao lại bảo là tà?
[72]
Vật sinh ra bắt
đầu ở sự hóa; vật đến cực đều do ở sự biến. Biến hóa cùng dồn nhau, thành với
bại đều do ở đó [73].
Cho nên khí có
vãng, phục, dụng có trì, tốc. Nhờ bốn điều kiện đó, mới sinh ra biến, hóa, mà
trong cũng do đó mà sinh ra [74].
Hoàng Đế hỏi: [75]
Trì, tốc với vãng,
phục; phong do đó mà sinh ra, phàm sự biến hóa, đều bởi thịnh suy mà gây nên.
Vậy còn sự “thành, bại” ẩn nấp ở bên trong, là vì sao? [76]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phàm có sự thành
hay bại, đều do ở động. Nếu động không ngừng, sẽ sinh ra sự biến hóa [77].
Hoàng Đế hỏi:
Có kỳ hạn nào
không? [78]
Kỳ Bá thưa rằng:
Không sinh, không
hóa, sẽ là kỳ hạn của sự tĩnh vậy [79].
Có khi nào không
sinh hóa chăng [80]?
Nếu bỏ mất sự đi
ra đi vào, thời còn chi là cái công dụng mở đóng của cánh cửa, nếu bỏ mất sự thăng
giáng không ngừng của âm dương, thời còn chi là sự sản xuất của muôn loài, muôn
vật... Vậy, cái khí thăng giáng, xuất, nhập, không một lúc nào ngừng.
Nhưng hóa cũng có
lớn nhỏ, mà kỳ cũng có xa gần. Bốn điều đó thường phải có luôn. Nếu không, sẽ
sinh tai hại. Cho nên có câu nói: “vô hình thời vô hại”. Thật là rất đúng (1).
THIÊN 69 : KHI
GIAO BIẾN LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Năm vận thay đổi
để chủ về năm, trên ứng với “thiên cơ” (cơ là năm); Hàn thử nốinhau; chân tà
cùng gặp, nội ngoại phân ly; sáu kinh thay đổi, năm khi lần lượt, thái quá và
bất cập, chuyên thắng và kiêm tinh... Xin cho biết rõ nguyên ủy ra làm sao?
[1].
Kỳ Bá thưa rằng:
Cần phải hiểu rõ
khí và vị. Vị ở trên trời là thiên văn; vị ở dưới đất là địa lý; suốt với sự
biến hóa của nhân khí, là nhân sự (việc của người. Hợp với trên là thiên văn,
địa lý, nhân sự). Cho nên thái quá là đến trước thiên thời, bất cập là đến sau
thiên thời. Do sự biến hóa đó, mà con người cũng ứng theo (2).
Hoàng Đế hỏi:
Sự hóa của năm
vận, thái quá như thế nào? [3]
Kỳ Bá thưa rằng:
Tuế thuộc Mộc mà
thái quá, thời phong khí sẽ tràn lan; do đó, nó sẽ chế thắng thổ khí, người sẽ
ứng theo đó mà mắc bệnh ở Tỳ. Xôn tiết, ăn sút, thân thể nặng nề, phiền oan,
trường minh, phúc chi mãn, ở trên thời ứng với Tuế tinh (4).
Nếu bệnh nặng thời
thường thường hay nóä, hoa mắt, chóng mặt, thuộc về chứng trạng ở đầu [5].
Hóa khí không thi
hành được chính lệnh, sinh khí một mình phát triển, khiến cho mây khói tung
bay, cỏ cây khôn lặng... Cây nên các chứng hiếp thống và thổ nhiều. Nếu mạch ở xung
dương mà tuyệt sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng với sao Thái bạch [6].
Tuế thuộc Hỏa mà
thái quá, thời khí nóng tràn lan, khiến kim phế thụ tà, con người cũng phải ứng
theo mà phát bệnh ngược (sốt rét, úi) thiểu khí, khái, suyễn, huyết giật, huyết
tiết, chú bạ, ách táo (cuống họng ráo) tai điếc, trung nhiệt (nóng ở trong
bụng); vai và lưng nhiệt; Trên ứng với sao Huỳnh hoặc [7]
Nếu quá lắm thời
trong hung đan, hiếp chi mãn, và đau, ức vai, cánh tay đều đau, mình nóng,
xương đau, rồi biến thành tẩm râm [8]
Cái khí thâu liễm
không lưu hành, cái khí sinh trưởng riêng phát triển, mưa nhiều, sương xuống,
trên ứng với Thần linh (9).
Nếu thượng lâm
Thiếu âm, Thiếu dương, thời lửa bốc nóng suối nước cạn, mọi vật khô khan [10].
Bệnh lại phát ra
thiềm vong, cuồng tẩu, suyễn, khái, thở thành tiếng, bách xuống thành huyết
tiết, tiết tả không dứt mạch Thái uyên tuyệt, sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng
với sao Huỳnh hoặc [11].
Tuế thổ thuộc thái
quá, thời mưa nhiều, khí ẩm thấp tràn lan. Con người cũng ứng theo, khiến Thận
thủy bị tà, gây nên phúc thống, lãnh quyết, ý buồn bã không được vui, thân thể
nặng nề, phiền oan. Trên ứng với Chấn tinh ) [12].
Quá lắm thời thành
ra cơ nhục nhão, chân yếu không tự cử động được (nuy); dưới chân đau, ăn uống
kém sút, phúc mãn, tứ chi rã rời, biến sinh giữa khí đắc vị [13].
Tàng khí bị phục,
hóa khí làm chủ, sông nước tràn ngập, đầm khô có cá, mưa gió tơi bời, thối đất
nát cỏ, cá tép lên cạn; phúc mãn, đường tiết, trường minh (bụng sôi); tả nhiều;
nếu Thái khê mạch tuyệt sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng với Tuế tinh [14].
Tuế kim thuộc thái
quá, táo khí lưu hành, do đó Mộc sẽ thụ tà. Con người cũng ứng theo mà lưỡng
hiếp và Thiếu phúc đau, mắt đỏ và đau; tai không nghe tiếng, khí túc sái càng
lắm, khiến thân thể nặng nề và phiền oan; Hung đau rút sang lưng, hai hiếp mãn
và đau rút xuống Thiếu phúc, trên ứng với sao Thái Bạch [15].
Quá lắm thời khái,
suyễn và nghịch khí, kiên và bối đau, cầu âm (xương khu), cổ (vế). tất (gối),
bễ (đùi) hành (ống chân) đều mắc bệnh, trên ứng với sao Huyền Hoặc [16].
Thâm khí mạnh quá,
sinh khí bị nhục, cỏ cây xơ xác vàng rụng; gây thêm bệnh bạo thống ở hai hiếp,
không thể trở mình, khái nghịch, quá lắm thời huyết ràn. Thái xung mạch tuyệt,
chết, không thể chữa. Trên ứng với sao Thái Bạch [17].
Tuế thủy thuộc
thái quá, thời hàn khí lưu hành, tà sẽ làm hại Tâm hỏa. Con người cũng ứng theo
mà mắc bệnh thân nhiệt, phiền tâm, táo và qúi; Aâm quyết cả trên dưới, trung
hàn, thiềm vọng, tâm thống. Hàn khí đến sớm, trên ứng với Thần Tinh [18].
Quá lắm thời phúc
đại, hĩnh thũng, (xương ống chân sưng)’ suyễn, khái khí nằm hãn ra, ghét gió.
Mưa to đến mây mù đen đặc. Trên ứng với Chấn tinh [19].
Thượng lâm Thái
dương, mưa đá, thỉnh thoảng tuyết sương giáng xuống, thấp khí làm biến mọi vật,
bệnh lại sinh ra phúc mãn, trường minh, đường tiết, ăn không tiêu, khát, hay
chóng mặt. Thần môn mạch tuyệt, sẽ chết, không thể chữa. Trên ứng với sao Huỳnh
Hoặc [20].
Hoàng Đế hỏi:
Về các năm bất
cập, thời như thế nào? [21]
Kỳ Bá thưa rằng:
Tuế mộc bất cập
thời táo khí sẽ đại hành. Con người cũng ứng theo đó mà mắc bệnh trung thanh
(lạnh ở bên trong). Khư hiếp đau, thiếu phúc đau, trường minh, đường tiết,
thường có lương vũ. Trên ứng với sao Thái Bạch [22].
Nếu thượng lâm
Dương minh, thời sinh khí sẽ mất sự phát triển; trên ứng với Thái Bạch và Chấn
Tinh (11) [23].
Nếu “phục” thời
nóng bức bội thường, sẽ phát các chứng hàn, nhiệt, sương, dương, phí, chẩn,
ung, tòa v.v... Trên ứng với sao Huỳnh Hoặc [24].
Bạch lộ giáng sớm,
khí thâu sái lưu hành; Tỳ thổ thụ tà “xích khí” hóa sau, Tâm khí vãn trị, trên
thắng Phế kim “bạch khí” sẽ bị khuất. Do đó phát chứng “cừu” và khái (25).
Tuế hỏa bất chập,
hàn khí đại hành, cái chính lệnh sinh trưởng không thể thi dụng, Con người cũng
ứng theo đó mà mắc bệnh hung trung thống, hiếp chi mãn, lưỡng hiếp thống; Ưng,
bối, kiên, bễ, hai cánh tay đau, uất mạo, mông muội, tâm thông, bạo ấm (bỗng
dưng miệng không nói được); phúc đại; dưới hiếp và yêu, bối cùng rút mà đau,
quá lắm thời co vào không duỗi ra được. Trên ứng với huỳnh hoặc [26].
“Phúc” thời khí bốc
mù mịt, thường có mưa to, hắc khí thụt xuống (hắc khi là thủy), người mắc bệnh
đại tiện phân sống, phúc mãn, ăn uống không được, hàn trung (lạnh bên trong),
sôi bụng; tả mạnh, bụng đau, bạo loạn (co gân) và nuy tý, chân đi không vững.
Trên ứng với Chấn Tinh và Thần Tinh [27].
Tuế thổ bất cập
phong khí sẽ đại hành. Hóa khí không thi hành được chính lệch... Con người cũng
ứng theo mà sinh chứng xôn tiết, hoặc loạn, cân cốt dao động (gân xương lay
động, co giật), cơ nhục, nhuận (cùng ở trong thịt) toan (nhức âm ỷ), hay nóä,
Tàng khí làm việc, người mắc chứng hàn trung trên ứng với Tuế Tinh, Chất Tinh
[28].
“Phục” thời cái
chính lệnh thâu liễm gắt gao khiến người hung, hiếp bạo thống, rút xuống Thiếu
phúc, hay thở dài, khí khách vào Tỳ, ăn uống kém sút mà không biết ngon [29].
“Thượng lâm” quyết
âm: Tàng khí không hiệu dụng được, bạch khí do đó không phục, dân được antoàn
[30].
Tuế kim bất cập,
viêm hỏa sẽ lưu hành, sinh khí do đó dụng được trưởng khí để chuyên thắng, con
người cũng ứng theo đó mà phát bệnh đau ở kiến bối, đầu cứ muốn qụy xuống, hay
hắt hơi, đại tiện ra huyết, khí thâu liễm mãi về sau mới phát triển. Trên ứng
với sao Thái bạch [31].
Nếu “phục” thời
mưa lạnh trút xuống, sương tuyết làm hại vật, Aâm quyết và cách dương, Dương
lại bốc lên, đầu và não bộ đau, xuất lên đỉnh đầu )buốt óc), phát nhiệt, lại
thêm chứng lở miệng, quá lắm thời Tâm thống [32].
Tuế thủy bất cập,
thấp khi sẽ đại hành; trường khí do đó đắc dụng, hóa của thổ lại hóa ra nhanh
chóng [33].
Con người cũng ứng
theo mà phát bệnh phúc mãn thận trọng, nhu tiết (đi tháo), hàn thương (mụn) chỉ
vỡ ra nước trong yêu và cổ (đùi) đều đau, đùi, vế buồn bực, tức nuy, giá lạnh,
dưới chân đau, quá lắm thời mu chân sưng lên. Tàng khi không thi hành được
chính lệnh, Thận khí không giữa được quân bình, trên ứng với Thần tinh [34].
Thượng lâm Thái âm
thời có đại hàn luôn. Người sẽ mắt phải hàn tật, quá lắm thời phúc mãn, phù
thũng trên ứng với Chất tinh [35].
“Phục” thời gió to
kéo đến, cây cối đổ gẫy, sắc mặt thường biến, gân xương đều đau, thịt rùng va
co rút, mắt trông tờ mờ, khí dồn lên Cách, Tâm phúc đều đau. Trên ứng với Tuế
tinh [36].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết sự
thắng phục của bốn mùa như thế nào? [37]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mộc bất cập: mùa
Xuân có cái cảnh ấm áp êm đềm, thời mùa Thu sẽ có cái lệch móc sương mát mẻ.
Nếu mùa Xuân gặp cái khí thảm thê, tàn tặc, thời mùa Hạ sẽ có cái cảnh nung nấu
oi ả. Tai sảnh sẽ phát từ phương đông, ở Tàng con người sẽ là Can. Nếu bệnh
phát ở bên trong sẽ tại khư hiếp, ở bên ngoài sẽ tại quan tiết [38].
Hỏa bất cập; mùa
Hạ có cái đức hóa sáng tỏ, rõ ràng, thời mùa Đông sẽ có cái lệch sưng hàn lạnh
lẽo; Mùa Hạ nếu lại có cái khí dìu hiu rét mướt, thời không chừng sẽ xảy ra mưa
to tầm tã... Tai sảnh sẽ phát từ phương Nam, ở Tàng con người sẽ là Tâm. Bệnh
phát, bên trong sẽ ở ưng, hiếp, bên ngoài sẽ ở kinh, lạc [39].
Thổ bất cập, tứ
duy (tức thổ) có cái đức hóa mây mái thấm nhuần, thời mùa Xuân sẽ có cái chính
lệch gió lay lả lướt, nếu tức duy có sự biến, gãy cành, trốc gốc, thời mùa Thu
sẽ có sự phục hiu hắt mưa dầm... Tai sảnh xảy ra ở Tứ duy, ở Tàng là Tỳ Bệnh
phát, bên trong thời ở Tâm phúc, bên ngoài thời ở Cơ nhục và tứ chi [40].
Kim bất cập, mùa
Hạ có cái lệch nắng nóû, mưa nhuần, thời mùa Đông có cái ứng sương sa, gió rét.
Nếu mùa Hạ, có sứ biến, tan đá chảy vàng, thời mùa Thu sẽ có sự phục sương
băng, mưa đá...Tai sảnh xảy ra ở phương Tây, ở Tông con người là Phế Bệnh phát
ở bên trong ưng, hiếp, kiên, bối, ở bên ngoài là bì mao [41]
Thủy bất cập, tứ
duy có cái sự hóa mưa nhuần thấm thía, thời bất thời sẽ có sự ứng gió hòa nảy
nở. Tứ duy có cái sự biến mưa dầm tầm tã, thời bất thời sẽ có sự phục gió bão
sương mù... Tai sảnh xảy ra ở phương Bắc, ở Tàng con người là Thận Bệnh phát, ở
bên trong yêu, tích cốt, tủy, ở bên ngoài là khê, cốc xuyền (xương óng) tất
(xương gối) [42].
Đại phàm, cái
chính lệnh của năm vận, cũng như cán cân Quá cao thời hạ thấp bớt xuống, quá
thấp thời nâng cho cao lên... Nếu hóa thời ứng, nếu biến thời phục. Đó là cái
lý trưởng, sinh thành, hóa, thâu, tàng, và là cái bình thường của khí. Nếu trái
với lẽ thường đó, thời cái khí của trời đất và bốn mùa, sẽ bị vít lấp [43].
Cho nên nói: sự
động tĩnh của trời đất, thần minh làm cương kỷ, sự vãng phục của âm dương, hàn
thử làm triệu chứng. Tức là lẽ đó [44].
Hoàng Đế nói rằng:
Phu tử nói về biết
của năm khí, và sự ứng của bốn mùa, thật đã rõ ràng. Nhưng mỗi khi khí biến
động, phát tác không có thường hội, thốt nhiên mà tai hại đến... Có thể dự kỳ
được không: [45]
Kỳ Bá thưa rằng:
Sự biến động của
trời đất, vốn không có nhất định, nhưng do đức, hóa, chính lệch. Nên tai biến
không giống nhau... Có thể nhật xét được [46].
Vậy là nghĩa sao?
[47]
Đông phương sinh
ra phong, phong sinh ra Mộc, đức của nó là êm hòa của nó là sinh tươi, chính
của nó là mở mang, lệch của nó là phong, sự biến của nó là gió mạnh, tai hại
của nó là rời rụng (vì ở trên có nói: đức, chính, lệnh, biến, tai... Nên ở mùa
nào cũng giải đủ sáu điều kiện ấy. Đó cũng là một thể tài của văn cổ) [48]
Nam phương sinh
nhiệt; nhiệt sinh ra hỏa, đức của nó là sáng tỏ, hóa của nó là rậm tốt; (mùa Hạ
cây cỏ rậm tốt); chính của nó là minh diệu (cũng như sáng tỏ, đều là cái tính
chất của hỏa); Lệnh của nó là nhiệt, sự biến của nó là tiêu thước, tai hại của
nó là đốt cháy) [49].
Trung ương sinh ra
thấp; Thấp sinh ra thổ, đức của nó là ẩm ướt, hóa của nó là đầy đủ; chính của
nó là an tĩnh, lệnh của nó là nhiệt, sự biến của nó là sậu chú (mưa to như chút
nước), tai hại của nó là lâm hội (mưa dầm nát đất, thối cỏ) [50]
Tây phương sinh
táo; Táo sinh ra Kim, đức của nó là thanh khiết (trong trẻo, sách sẽ); hóa của
nó là thâu liễm (hanh hái thâu liễm) chính của nó là kính thiết (cứng cỏi);
lệnh của nó là táo, biến của nó là túc sái; tai hại của nó là thương vẫn (vàng
úa, rơi rụng) [51]
Bắc phương sinh ra
hàn, hàn sinh ra Thủy, đức của nó là lạnh lẽo, hóa của nó là yên lặng, chính
của nó là ngưng túc (đóng lại, giá lạnh), bệnh của nó là hàn, sự biến của nó là
lẫm lạt (rét run); tai hại của nó là băng bộc sương tuyết (băng: nước rắn lại
như đá; Bộc mưa đá) [52].
Vậy ta chỉ xét ở
sự “động” đó, cũng có đủ (đức, hóa, chính, bệnh, biến, tai...” Muôn vật đều
theo, mà người cũng không ra khỏi phạm vi đó (1) [53].
Hoàng Đế nói:
Phụ tử nói: về tuế
“hậu” ở thái quá và bất cập, mà trên ứng với ngũ tinh. Giờ như: đức, hóa,
chính, lệnh, tai, sảnh, biến dịch... Không phải là sự có thường. Nếu thốt nhiên
mà động, đối với ngũ tinh, có biến dịch không?
Kỳ Bá thưa rằng:
Theo thiên vận để
thi hành, nên không có vọng, động, hết thảy có ứng. Nếu thống nhiên mà động là
sự giao biến của khí. Cũng có khi không ứng. Cho nên có câu nói: “Chỉ ứng với
sự thường, không ứng với sự thốt nhiên”. Tức là nghĩa đó (1) [55].
Hoàng Đế hỏi:
Sự ứng như thế
nào? [56]
Kỳ Bá thưa rằng:
Điều theo về khí
hóa (1). Cho nên tuế vận thái quá, thời úy tinh thất sắc, và lây tới cả mẹ nó.
Nếu bất cập thời sắc cũng kiêm cả “sở bất thắng” (2) [57].
Hoàng Đế hỏi:
Sự động, tĩnh,
tổn, ích của đức, hóa, chính, lệnh, như thế nào [58]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Đức, hóa, chính,
lệnh, tai biến, không thể xen lẫn vào nhau (1). Thắng, phục, thịnh, suy không
thể làm cho thêm hơn (2). Vãng, lai, đại, tiểu, không thể bỏ lỡ (3). Cái hiệu
dụng về sự thăng giáng, không thể nào không có (4). Đều do ở sự động mà báo
phục đó thôi (5) [59].
Hoàng Đến hỏ:
Bệnh sinh ra như
thế nào [60]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Khí tương thắng
thời hòa, không tương thắng thời bệnh; lại cảm thêm tà khí, thời nặng (1) [61].
CHƯƠNG 70 - 71 : NGŨ THƯỜNG CHÍNH ĐẠI LUẬN
Hoàng Đế hỏi rằng:
Thái hư rộng thẳm,
năm vận xoay vần; suy thịnh không giống, tổn ích cùng theo. Xin cho biết thế
nào là binh khí? Vì sao mà có tên? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Mộc gọi là Phu
hòa, Hỏa gọi là Thăng minh, Thổ gọi là Bị hóa; Kim gọi là Thẩm bình, Thủy gọi
là Tĩnh thuận [2].
Bất cập thời gọi
là [3]?
Mộc gọi là Uûy
hòa; Hỏa gọi Phục minh, Thổ gọi là Ty giam. Kim gọi là Tùng cách, Thủy gọi là
Hạc lưu [4].
Thái quá thời gọi
là gì [5]?
Mộc gọi là Phát
sinh, Hỏa gọi là Hách hy, Thổ gọi là Đôn phụ, Kim gọi là Kiên thành, Thủy gọi
là Lưu diễn [6].
Hoàng Đế hỏi:
Xin cho biết các
chứng hậu phát sinh do ba khí trên đó, như thế nào [7]?
Kỳ Bá thưa rằng:
về năm Phu hòa, lệnh của nó là Phong, tàng của nó là Can, nó sơ thanh (tức
kim), nó khai khiếu lên mắt, nó nuôi ở Cân. Nếu bệnh, sẽ lý cấp, chi mãn, vị
của nó thuộc Toan [8].
Về năm Thăng minh,
lệnh của nó là Nhiệt; Tàng của nó là Tâm. Tâm sợ hàn (thủy), nó chủ về lưới, nó
nuôi ở huyết, nếu bệnh, sẽ nhuận khiết (tức thịt rùng, và rút gân), vị của nó
thuộc Khổ [9].
Về năm Bị hóa,
lệnh của nó là Thấp; Tàng của nó là Tỳ, Tỳ sợ phong (tức phong mộc), nó chủ về
miệng, nó nuôi vệ nhục. Nếu bệnh, sẽ thành chứng bĩ. Vị của nó thuộc Cam [10].
Về năm Thẩm bình,
lệnh của nó là táo; Tàng của nó là Phế, Phế sợ nhiệt, nó chủ về mũi, nó nuôi ở
bì mao. Nếu bệnh, sẽ phát khái (ho). Vị của nó thuộc Tân [12].
Vền năm Tĩnh
thuận, lệnh của nó là bàn; Tàng của nó là Thận, Thận sợ thấp (thổ), nó chủ về
hai đường âm (tiền, hậu âm). Nếu bệnh, sẽ thành chứng quyết. Vị của nó thuộc
Tân [11].
Về năm Tĩnh thuận,
lệnh của nó là bàn; Tàng cùa nó là Thận, Thận sợ thấp (thổ), nó chủ về hai
đường âm (tiền, hậu âm). Nếu bệnh, sẽ thành chứng quyết. Vị của nó thuộc Hàm
[12].
Cho nên, sinh mà
chớ sái, trường mà chớ phạt, hóa mà chớ chế, thâu mà chớ hại, tàng mà chứ ức
(nén xuống). Như thế gọi là bình khí (1) [13].
Về năm Uûy hòa,
tức là mộc vận bất cập. Do đó, cái khí “sở thắng”, nó sẽ thắng được sinh khí,
Kim khí đã thắng thời mộc không thể phát triển được chính lệnh của mình. Do đó
thổ không còn úy kỵ gì nữa. Mộc suy thời hỏa khí cũng không thể thịnh [14];
Phàm bệnh hay phát
sinh tại can tàng.
Về năm phục minh,
tức là hỏa vận bất cập, hỏa vận cập, nên cái khí của thủy tàng lại được tự do
tán bố; kim cũng không còn phải sợ, cho nên thâu khí được tự chủ chính lệnh. Do
đó, thổ khí cũng không được thịnh, và bệnh hay phát sinh tại Tâm tàng [15].
Về năm Tỵ giam,
tức là năm thổ vận bất cập. Vì Thổ bất cập, nên Mộc nó thắng lại được, khiến
hóa khí không còn thi triển được chính lệnh. Cũng do đó mà thâu khí phải bình.
Mộc với hỏa đã được hoành hành nên mưa gió có luôn. Mà bệnh thời hay phát sinh
tại Tỳ tàng [16].
Về năm Tùng cách,
tức là năm kim vận bất cập vì kim bất cập, nên Mộc không còn sợ hãi. Bệnh hay
phát sinh tại Phế tàng [17].
Về năm Hạc lưu,
tức là năm thủy vận bất cập. Vì Thủy bất cập, nên dương khí lại thắng mà được
tự do phát triển; cũng do đó mà hóa lệch của Thổ cũng được xương thịnh, và hỏa
không còn úy kỵ, nên khí dương nhiệt mới có thể tràn lan bốn cõi. Bệnh hay phát
sinh tại Thận tàng [18].
Xem đó thời biết;
thừa sự nguy mà tiến hành không phải mời mà tự đến. Nếu bạo ngược không có đức,
thời tai hại tới ngay. Nhỏ thời báo phục nhỏ, nặng thời báo phục nặng, đó là
cái thường của khí (1) [19.
Về năm phát sinh,
tức là tuế mộc thái quá. Vị của nó toan, cam, tâm, nó tượng về mùa Xuân. Kinh
của nó là Túc Thiếu dương, Quyết âm, Tàng của nó là Can và Tỳ. Bệnh của nó là
nóä, khí nghịch và thổ lợi. Nếu không chủ ở đức, thời kim khí lại phục, ta sẽ
thương Can [20].
Về năm Hách hy,
tức là tuế hỏa thái quá. Vị của nó là khổ, tân, hàm, nó tượng về mùa Hạ, Kinh
của nó là Thủ Thiếu âm, Thái dương, Thủ Quyết âm thiếu dương, Tàng của nó là
Tâm với Phế. Bệnh của nó là tiếu (hay cười), ngược, lở láy, cuồng vọng và mắt
đỏ. Nếu chính lệch bạo lạt, tàng khí sẽ lại phục, tà sẽ thương Tâm [21].
Về năm Đôn phụ,
tức là tuế thổ thái quá. Vị của nó là cam, hàn, toan, nó tượng về mùa Trường
hạ, kinh của nó là Túc thái âm, Dương minh, tàng của nó là Tỳ và Thận. Bệnh của
nó là phúc mãn, tứ chi rã rời, gió lớn thổi đến, tà sẽ thương Tỳ [22].
Về năm Kiên thành,
tức là tuế kim thái quá. Vị của nó là tân, toan, khổ, tượng của nó là mùa Thu,
kinh của nó là Thủ Thái âm, Dương minh. Tàng của nó là Phế và Can. Bệnh của nó
là suyễn, khát, khó thở, không nằm ngửa. Nếu khi nóng quá nhiều, tà sẽ thương
Phế [23].
Về năm Lưu diễn,
tức là năm thủy vận thái quá. Vị của nó là hàm, khổ, cam, tượng của nó là mùa
Đông, kinh của nó là Túc Thiếu âm. Thái dương, Tàng của nó là Thận và Tâm Bệnh
của nó là trướng (bụng to vượt lên). Nếu trưởng khí (hỏa) không hóa được, ta sẽ
thương Thận [24].
Cho nên nói: nếu
đức không giữ được thường, thời “sở thắng” sẽ lại phục, nếu chính lệnh giữ được
thường, thời “sở thắng” cùng hóa. Tức là nghĩa đó (1) [25].
Hoàng Đế hỏi:
Trời bất túc ở tây
bắc, tả hàn mà hữu lương (mát) đất bất mãn ở đông năm, hữu nhiệt mà tả ôn... Là
vì cớ sao (1) [26]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó là do cái khí
âm dương, cái lý cạo hạ, và cái khác của Thái, Thiếu mà sinh ra (2) [27].
Đông nam thuộc
dương. Dương thời tinh giáng xuống ở dưới, cho nên hữu nhiệt mà tả ôn, Tây Bắc
thuộc Aâm. Aâm thời tinh phụng lên trên, cho nên tả hàn mà hữu lương. Vì vậy,
đất có cao thấp, khí có ôn lương. Ở nơi cao thời khí hàn, ở nơi thấp thời khí
nhiệt (3) [28].
Cho nên, đến ở nơi
hàn lương thời có bệnh trướng, đến ở nơi ôn nhiệt thời hay có bệnh lở. Hạ đi,
thời trướng khỏi, hãn đi, thời lở khỏi. Đó là cái lẽ thường mở đóng của Tấu lý,
và sự khác nhau của Thái, Thiếu (4) [29].
Hoàng Đế hỏi:
Đối với sự thọ,
yểu như thế nào? [30]
Kỳ Bá thưa rằng:
Nơi nào dược âm
tinh thượng phụng thời người thọ, nơi nào bị dương tinh giáng xuống thời người
yểu (1) [31].
Về bệnh, nên trị
liệu thế nào? [32]
Thuộc về khí của
Tây Bắc, thời tán đi mà làm cho hàn; thuộc về khí của Đông, Nam. Thời thâu lại
mà làm cho ôn, liệu trị khác nhau vậy (2) [33]
Cho nên nói: khí
hàn, khí lương... liệu trị bằng hàn lương, lại dùng thêm phép tẩm vào nước...
Khí ôn, khí nhiệt... liệu trị bằng ôn nhiệt, phải làm cho nguyên dương mạnh để
cố thủ ở bên trong... Miễn sao cho khí hòa đồng, mới có thể yên. Nếu “giả” thời
làm trái lại (3).
Hoàng Đế hỏi:
Cùng là khí trong
một châu, mà sinh, hóa, thọ, yểu, không giống nhau, là vì sao? [35]
Kỳ Bá thưa rằng:
Cái lý cao thấp,
do địa thế mà gây nên. Ở nơi tùng cao (cao vọt, như cao nguyên, hoặc rừng núi)
thời âm khí chủ trị, ở nơi ô hạ (đất trũng, thấp, như miền giáp bể, đồng chiêm
v.v...). Thời Dương khí chủ trị. Dương thắng thời khí đến trước thiên thời (Hậu
thiên). Đó là cái lẽ thường của đọa lý, và là cái đạo của sự sinh hóa (1) [36]
Hoàng Đế hỏi:
Cùng có thọ, yểu
khác nhau chăng? [37]
Kỳ Bá thưa rằng:
Ở nơi cao thời khí
thọ; ở nơi thấp thời khí yểu. Đất vì lớn nhỏ mà khác nhau. Nhỏ thời khác nhỏ,
lớn thời khác lớn (2) [38].
Cho nên về phép
trị bệnh, phải hiểu rõ thiên đạo, địa lý, âm dương canh thắng, khí đến tiên
hậu, người được thỏ yểu, và cái kỳ hạn của sự sinh hóa... Mới có thể biết được
hình khí của con người (3) [39].
Hoàng Đế hỏi rằng:
Có năm không vì
Vận và “Phương” mà sinh bệnh. Tàng khí cũng có khí không ứng, không dụng là thế
nào [40]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Đó là do sự “chế”
của thiên khí mà khí của con người cũng theo (1)... [41]
Xin cho hiểu rõ..
[42]
Thiếu dương, Tư
thiên thời hỏa khí “hạ lâm”, Phế khí theo lên... Do đó, phát ra các chứng khái
(ho), xì (hắt hơi), cừu nục (đổ máu ra đằng mũi); Ty chất (mũi ngạt, hoặc mọc
mụn trong mũi), khẩu thương (lở ở miệng), hàn nhiệt, phù thũng (sưng phù ở
chân)... Tâm thống và Vị quản thống, quyết nghịch, trong cách không thông...
Bệnh phát rất chóng (2) [43].
Dương minh Tư
thiên, Táo khí hạ lâm, Can khí ứng lên theo, Thổ sẽ bị tai sảnh, bệnh phát ra
hiếp thống mắt đỏ, run rẩy, cân nuy, không đúng được lâu (1) [44].
Khí bạo nhiệt đưa
đến, thổ bị thử khí nung nấu, dương khí uất phát, tiểu tiện biến sắc, hàn nhiệt
như chứng ngược, quá lắm thời Tâm thống (2) [45].
Thái dương Tư
thiên thời hạn hạ lâm. Tâm khí ứng lên theo Kim sẽ bị tai sảnh. Bệnh phát ra
Tâm nhiệt, phiền, ách can, hay khát, đau ở sống mũi và hắt hơi, hay bi, hay
vươn vai. Vì nhiệt khí vọng hành, nên hay quân. Quá lắm thời phát Tâm thống (1)
[46].
Thổ sẽ ẩm ướt.
Thấp khí làm biến cả mọi vật, gây nên chứng thủy ẩm, trung mãn, không ăn được,
bì tý, nhục a, cân mạch không lợi, quá lắm thời sưng thũng và hậu ung (mọc mụn
ở phía sau) (2) [47].
Quyết âm tư thiên,
phong khí hạ lâm Tỳ khí ứng lên theo. Bệnh phát sinh các chứng: thân thể nặng,
cơ nhục nhão nát, ăn kém, miệng không biết ngom, phong râm ở trên, nên thêm các
chứng mắt hoa, tai ù (1). Hỏa tràn lan khí nóng, nên đất cũng biến thành khí
thử (2) [48]
Thiếu âm tư thiên,
nhiệt khí hạ lâm, Phế khí ứng lên theo. Bệnh sẽ phát: Suyễn, Aåu, hàn, nhiệt,
xị, đau xương sống mũi, đổ máu cam, mũi ngạt, khí nóng bức tràn lan, quá lắm
thời phát lở lấy, mụn nhọt. Đất bị khí “táo”, khiến người hiếp thống và hay thở
dài (1) [49].
Thái âm Tư thiên,
thời thấp khí hạ lâm, Thận khí ứng lên theo [50].
Bệnh phát ra trong
Hung không thông thông lợi, âm nuy. Thận khí quá suy, dương khí không thể phát
triển. Nếu gặp Đông lệnh, sẽ gây thêm chứng yêu chùy (xương sống) đau, không
thể trở mình, hoặc quyết nghịch (1) [51].
Đất sẽ “tàng” khí
âm, gây chứng Tâm hạ lũ thống, Thiếu phúc thống, kém ăn. Thừa lên Kim thời
thôi, Nếu Thủy tăng, vị sẽ biến ra hàm. Dùng phép hành thủy, sẽ khỏi (11) [52].
Hoàng Đế hỏi:
Hằng năm, có các
loài vật không sinh dục, vận chủ không toàn, do khí gì gây nên [53]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Bởi sáu khí, năm
loại, cùng thắng, chế lẫn nhau. Được khí tương đồng thời thịnh, gặp khí tương
dị thời suy, đó là lẽ thường trong đạo, sinh hóa của trời đất, không có gì khác
lạ [54].
Cho nên, khí chủ
có sở chế, tuế lập có sở sinh. Địa khí thời chế về “thắng kỷ”, thiên khí thời
chế về “kỷ thắng” [55].
Hoàng Đế hỏi:
Khí thủy bắt đầu
mà sinh hóa, khí tán mà có hình, khí bố (tán bố) thời phồn dục (tâm, tốt), khí
chung (cuối cùng) thời tượng... Cái nguyên lý chỉ như một. Nhưng năm vị sinh
ra, sinh hóa có hậu, bạc, thành thục có nhiều, ít, chung thủy không giống nhau,
là vì sao [56]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Do địa, khí chế
ngự đó, Phàm vật không có thiên khí thời không sinh, không có địa khí thời
không trưởng (1) [57].
Hoàng Đế nói:
Xin cho biết chi
tiết ra làm sao? [58 ].
Kỳ Bá thưa rằng:
Hàn, nhiệt, táo,
thấp, sự hóa không giống nhau cho nên Thiếu dương Tại toàn, khí hàn độc không
sinh ra. Vị nó tân, về liệu trị, dùng các vị khổ toan (1) [59].
Dương minh Tại
toàn thời thấp độc không sinh ra. Vị nó toan, khí nó thấp. Chủ trị của nó là
Tân, Khổ, Cam (1) [60].
Thái dương Tại
toàn, thời nhiệt độc không sinh ra. Vị nó khổ. Chủ trị của nó là Đạm và Hàm (2)
[61].
Quyết âm tại toàn,
thời thanh độc không sinh ra. Vị nó Cam. Chủ trị của nó là Toan và Khổ, khinó
chuyên, vị nó chính (3) [ 62].
Thiếu âm Tại toàn
thời hàn độc không sinh ra. Vị nó tân, chủ trị của nó là tân, khổ, cam (4) [
63].
Thái âm Tại toàn
thời táo độc không sinh ra. Vị nó hàn, khí nó nhiệt, chủ trị của nó là cam hàn
(5) [64].
Hóa thuần thời hàm
giữ gìn, khí chuyên thời tân hóa mà điều trị (6) [65].
Cho nên: muốn dùng
“bổ” ở trên dưới, thời phải dùng phép thuận, muốn dùng ‘trị” ở trên dưới, thời
phải dùng phép nghịch. Nhận xem hàn, nhiệt, thịnh, suy ở đâu để điều hòa. Cho
nên nói “Thượng thủ, hạ thủ, nóäi thủ, ngoại thủ, đề cầu nơi hữu quá (có lỗi,
tức có bệnh); Lại xét bệnh nhân có thể thắng được độc thời dùng hậu dược (vị
thuốc khí vị nùng hậu); không thắng được độc thời dùng bạc dược (vị thuốc khí
vị đạm bạc) (1) [66].
Nếu bệnh khí tương
phản, thời bệnh ở trên, trị ở dưới, bệnh ở dưới, trị ở trên, bệnh ở trung
(giữa) trị ở bên cạnh (1) [67].
Trị bệnh nhiệt
bằng vị hàn, dùng “ôn” cho dẫn hành, trị hàn bằng vị nhiệt, dùng “lương” cho dẫn
hành, trị ôn bằng vị thanh, dùng “lãnh” cho dẫn hành, trị thanh bằng vị ôn,
dùng “nhiệt” cho dẫn hành, cho nên hoặc tiêu, hoặc tước, hoặc thồ, hoặc hạ,
hoặc bổ, hoặc tả... Bệnh lâu, bệnh mới cùng một phương pháp (2) [68].
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh ở trong mà không
thực, không kiên, không tụ, không tán... Thế là vì sao [69]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Không có tích thời
cầu ở Tàng: hư thời bổ, dùng thuộc để trừ đi, dùng ăn để giúp theo, dùng phép
tẩm vào nước để lấy hãn... Miễn sa trong ngoài đều hòa, bệnh sẽ được hết (1)
[70].
Hoàng Đế hỏi:
Thuốc có thứ có
chất độc, có thứ không có chất độc. Về việc uống, có qui chế nhất định không
[71]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Bệnh có lâu, mới;
phương có lớn, nhỏ, thuốc có chất độc hay không chất độc, về phương pháp dùng,
vốn có qui chế thường [72].
Vị thuốc có chất
đại độc, dùng để trị bệnh, bệnh mười phần, giảm hớt được 6 phần thời thôi, đừng
dùng nữa [73]. Vị thuốc có chất độc thường, dùng để trị bệnh, bệnh mười phần,
bớt được bảy phần thời thôi đừng dùng nữa [74]. Vị thuốc có chất tiêu độc, dùng
để trị bệnh, bệnh mười phần, bớt được tám phầ thời thôi đừng dùng nữa [75]. Vị
thuốc không có chất độc, dùng để trị bệnh, bệnh mười phần, bớt được chín phần,
thời thôi, đừng dùng nữa [76]. Cơm gạo, cá, thịt, các thức quả, các thức rau...
Dùng làm thức ăn cho bổ dưỡng thêm, bệnh hết thời thôi, không nên nhiều quá, e
làm thương đến chính khí [78]. Nếu bệnh vẫn chưa khỏi, lại dùng thuốc theo như
phương pháp trên (2) [78].
Phải trước xét
nhận ở tuế khí, đừng làm hại đến khí hòa, đừng đã thịnh lại giúp cho thịnh
thêm, đừng đã hư lại làm cho hư thêm... Khiến người mắc tai vạ, đừng chuốc lấy
tà, đừng làm mất chất chính, khiến người bị yếu vong (3) [79].
Hoàng Đế hỏi:
Có người mắc bệnh
lâu ngày, khí đã thuận mà vẫn không khỏe, bệnh hết mà người vẫn gầy... Như thế
là thế nào [80]?
Kỳ Bá thưa rằng:
Không thể thay khí
hóa, không thể trái bốn mùa [81]. Giờ kinh lạc đã thông, huyết khí đã thuận chỉ
nên làm cho hồi phục lại cái Tàng nào bất túc, cho được điều hòa như nhau, bổ
dưỡng thêm, điều hòa thêm yên lặng, để đợi thời, giữ khí cho cẩn thận, đừng để
sai lệch... Như thế, sinh khí sẽ được lâu dài và thân hình sẽ được mạnh khỏe
(2) [82].
THIÊN 74 : CHÍ CHÂN YẾU ĐẠI LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Năm khí giao hợp,
doanh hư thay đổi... Lẽ đó, tôi được biết rồi. Còn sáu khí chia trị, Tư thiên,
Tại toàn, khí đến như thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Quyết âm Tư thiên,
hóa của nó là phong. Thiếu âm tư thiên, hóa của nó là nhiệt, Thái âm tư thiên,
hóa của nó là thấp. Thiếu dương Tư thiên, hóa của là hỏa, Dương minh Tư thiên,
hóa của nó là táo, Thái dương tư thiên, hóa của nó là hàn... Lấy cái Tàng vị
sáu khí nó lâm, mà nhận định bệnh danh... (tức là thiên khí ở trên lâm xuống,
mà dưới hợp với Tàng vị của con người, tùy theo 6 khí nó phạm vào tàng nào, để
ấn định tên bệnh) [2].
Địa hóa (tức Tại
toàn) như thế nào? [3]
Cùng “hậu” như tư
thiên, gián khí cũng vậy [4].
Gián khí như thế
nào? [5]
“Tư” ở tả, hữu gọi
là gián khí [6].
Lấy gì để phân
biệt là khác? [7].
Chủ tuế thời kỳ
tuế, gián khí thời kỳ bộ (1) [8].
Hoàng Đế hỏi:
Tuế chủ như thế
nào? [9]
Kỳ Bá thưa rằng:
Quyết âm Tư thiên
là phong hóa, Tại toàn là toan hóa, tư khí là thương hóa (hóa màu xanh), gián
khí là động hóa. Thiếu âm Tư thiên là Nhiệt hóa. Tại toàn là khổ hóa, không tư
về khí hóa tư khí là chước hóa (hóa sự cháy nóng). Thái âm tư thiên là thấp
hóa, Tại toàn là Cam hóa, tư khí là kiềm hòa, gián khí là Nhu hóa, Thiếu dương
Tư thiên là hỏa hóa, Tại toàn là khổ hóa, tư khí là đan hoá (hóa sắc đỏ), gián
khí là minh hóa (hóa sự sáng tỏ). Dương minh Tư thiên là táo hóa, Tại toàn là
tân hóa, tư khí là tố hóa, gián khí là thanh hóa. Thái dương Tư thiên là hàn
hóa, Tại toàn là hàn hóa, tư khí là huyền hóa, gián khí là Tàng hóa... Cho nên
muốn trị bệnh phải biết rõ sáu khí, chia trị năm vị, năm sắc sinh ra thế nào,
năm tàng nên như thế nào... Mới có thể nói được lẽ doanh, hư và cái nguyên nhân
sinh ra bệnh hoạn (1) [10].
Hoàng Đế hỏi:
Quyết âm Tại toàn
mà toan hóa, tôi đã hiểu rồi. Còn sự phát triển của phong hóa, như thế nào?
[11].
Kỳ Bá thưa rằng:
Phong phát sinh ra
ở đất, đó tức là “bản”. Các khí khác đều như vậy. Bản (gốc) ở trời, tức là
thiên khí, bản ở đất, tức là địa khí. Trời với đất hợp khí, sáu tiết phân chia,
muôn vật do đó mà hóa sinh. Cho nên nói: “Cẩn hậu khí nghi, vô thất bệnh kỳ”,
tức là lẽ đó (1) [12].
Hoàng Đế hỏi:
Chủ bệnh như thế
nào? [13].
Kỳ Bá thưa rằng:
Tư thế, bị vật
(1), thời không sót nữa [14].
Trước tuế mà bị
vật, như thế nào? [15].
Đó là chuyên tính
của trời đất [16].
Tư tuế như thế
nào? [17].
Tư khí để nhận chủ
tuế, do đó lại xét cả hữu dư và bất túc [18].
Nếu không tư tuế,
bị vận, thì sao? [19].
Vì khi nó tán,
chất tuy đồng mà lực khác nhau. Khí vị có hậu bạc, tính dụng có táo tĩnh, trị,
bảo có nhiều ít, lực hóa có thiển, thâm... Vì vậy nên phải tư tuế bị vật (2)
[20].
Hoàng Đế hỏi:
Tuế chủ làm hại
cho Tàng, như thế nào? [21].
Kỳ Bá thưa rằng:
Xét cái “sở bất
thắng” của nó, thời rõ được yếu điểm như thế nào? (1) [22].
Trị liệu như thế
nào? [23]
Ở trên mà “râm”
xuống dưới thời lấy cái “sở thắng” để làm cho yên, do bên ngoài mà “râm” vào
trong, thời lấy cái “sở thắng để điều trị (2).
Hoàng Đế hỏi:
Bình khí như thế
nào? [25].
Kỳ Bá thưa rằng:
Nhận xét kỹ âm
dương ở đâu để điều trị, lấy quân bình làm giới hạn, Chính thời chính trị, phản
thời phản trị...(1) [26].
Hoàng Đế hỏi:
Phu tử nói xét về
sự hỗ giao âm dương để điều trị. Luận nói: “Nhân nghinh với Thốn khẩu tương
ứng, không sai như dây mặc, gọi là “bình”, vậy âm dương sở tại, và thốn khẩu
như thế nào? [27].
Kỳ Bá thưa rằng:
Nhân năm thuộc về
Nam chính hay Bắc chính, thời sẽ biết được (1) [28].
Về năm Bắc chính,
Thiếu âm Tại toàn thốn khẩu không ứng, Quyết âm tại toàn, thời bên “hữu” không
ứng, Thái âm Tại toàn thời bên “tả” không ứng. Về năm Nam chính, Thiếu âm tư
thiên thời. Thốn khẩu không ứng. Quyết âm Tư thiên thời bên hữu không ứng Thái
âm Tư thiên thời bên tả không ứng. Phàm những “không ứng” “phản chấn” thời sẽ
thấy (2) [29].
Hoàng Đế hỏi:
Xích hậu như thế
nào? [30].
Kỳ Bá thưa rằng:
Về năm Bách chính,
Tam âm ở dưới, thời Thốn không ứng, Tam âm ở trên, thời Xích không ứng. Về năm
Nam chính. Tam âm Tư thiên, thời Thốn không ứng. Tam âm Tại toàn, thời xích
không ứng. Tả, hữu đều như vậy. Cho nên nói: biết được cốt yếu, chỉ một lời
cũng đủ, không biết được cốt yếu, sẽ lưu tán vô cùng (1) [31].
Hoàng Đế hỏi:
Khí của trời đất,
do nóäi tâm mà sinh ra bệnh như thế nào? [32]
Kỳ Bá thưa rằng:
Những năm Quyết âm
Tại toàn, bị phong râm nó thắng, thời địa khí u ám, cỏ cây sớm tốt. Dân mắc
bệnh ghê ghê sợ rét, hay vươn vai, Tâm thống, chi mãn, lưỡng hiếp lý cấp (đau
rút hai bên sườn) uống ăn không chịu, cách yết không thông, ăn vào thời nóân,
phúc trường hay ợ, được hậu (đại tiện) với khí (trung tiện), thời trong bụng
nhẹ ngay như bớt. Thân thể đều nặng [33].
Những năm Thiếu âm
Tại toàn, bị nhiệt râm nó thắng, nơi tối lại sáng. Dân mắc bệnh trong bụng
thường sôi, (kêu réo), khí xông lên hung, thở suyễn, không thể đứng lâu, hàn,
nhiệt, bì phu thống, mắt mờ, răng đau, quai hàm sưng. Ố hàn, phát nhiệt, như
Ngược, trong Thiếu phúc đau, bụng lớn (vì nhiệt ở Trung tiêu nên bụng lớn)
[34].
Những năm Thái âm
Tại toàn, bị thấp râm nó thắng, gần xa tăm tối, dân mắc bệnh ẩm, tích, tâm
thống, tai điếc, bừng bừng nóng nẩy, ách thũng, hầu tý, âm bệnh, ra huyết,
thiếu thống và thũng, không tiểu tiện được, khí bốc đầu nhức, mắt như mờ , cổ
như gãy, lưng đau, đùi duỗi không thể co, bộng chân đau nhức như bị nứt [35].
Những năm Thiếu
dương Tại toàn bị hỏa râm nó thắng, hàn nhiệt thay đổi đến... Dân mắc bệnh chú
tiết xích hoặc bạch (tức kiết lỵ); Thiếu phúc thống, niệu xích, quá lắm thời
tiện huyết. Thiếu âm cùng hậu (1) [36].
Những năm Dương
minh tại toàn, bị táo râm nó thắng, dân mắc bệnh hay ẩn (ọe) ra vị đắng, hay
thở dài, Tâm, Hiếp thống, không thể trở mình, quá lắm thời họng khô, mặt nhồm,
da dẻ khô rộp, ngoài chân lại nhiệt.
Những năm Thái
dương, Tại toàn, bị hàn râm nó thắng, dân mắc bệnh đau ở Thiếu dương, rút xuống
Dịch hoàn, suốt ra yêu tích; xung lên thành Tâm thống, ra huyết, họng đau, quai
hàm sưng [38].
Hoàng Đế hỏi:
Điều trị như thế
nào? [39]
Cái khí trong thời
kỳ Tại toàn, bị phong râm vào bên trong, nên trị bằng vị tân và lương, tá bằng
vị khổ và cam, dùng vị cam làm cho hoãn lại, dùng vị tân làm cho tán đi (1)
[40].
Bị nhiệt râm vào
bên trong, nên trị bằng vị hàm, và hàn, tá bằng vị khổ và cam, dùng vị toan để
thâu lại, dùng vị khổ đế phát đi (2) [41].
Bị thấp râm vào
bên trong, nên trị bằng vị khổ và nhiệt, tá bằng vị toan và đạm, dùng vị khổ
làm cho táo lại, dùng vị đạm làm cho tiết đi (3) [42].
Bị hỏa râm vào bên
trong nên trị bằng khổ và ôn, tá bằng vị cam và tân, dùng vị toan để thâu lại,
dùng vị khổ để phát đi (4) [43]
Bị táo râm vào bên
trong, nên trị bằng khổ và ôn, tá bằng vị cam và tân, dùng vị khổ để hạ xuống
(5) [44]
Bị hàn râm vào bên
trong, nên trị bằng vị cam nhiệt, tá bằng vị khổ và tân, dùng vị hàm để tả đi,
dùng vị tân để nhuận thêm, dùng vị khổ để làm cho kiên lại (6) [45]
Hoàng Đế hỏi:
Thiên khí biến như
thế nào? [46]
Kỳ Bá thưa rằng:
Quyết âm Tư thiên,
bị phong râm nó thắng... dân mắc bệnh Vị quản giữa tâm mà đau, rút lên hai
hiếp, cách yết không thông, uống ăn không xuống, lưỡi cứng đờ, ăn vào thời ẩu,
lãnh tiết, phúc trướng, đường tiết (đại tiện nát), giả (hòn nóåi lại tan),
đường thủy vít. Bệnh vốn ở Tỳ Xung dương mạch tuyệt, chết không thể chữa [47].
Thiếu âm Tư thiên,
bị nhiệt râm nó thắng. Dân mắc bệnh trong Hung phiền nhiệt, ách can, hữu hiếp
mãn, bì phu thống, phát hàn nhiệt, khái và suyễn, thóa huyết (nhổ ra huyết),
huyết tiết, cừu, nục, xị, ẩu, tiểu tiện, sắc biến. Quá lắm thời thương dương,
phù thũng: Kiên (vai) bối (lưng), tý nhu (cánh tay), và trong khuyết bồn đều
đau. Tâm thống, Phế trướng, bụng lớn và mãn hoặc, bụng trướng mà khái và suyễn.
Gốc bệnh ở phế, Mạch ở xích trạch tuyệt, chết, không thể chữa [48].
Thái âm Tư thiên,
bị thấp râm nó thắng, dân mắc bệnh, phù thũng, cốt thống, âm tý, án tay vào
không được, yêu, tích, đầu hạng thống, thỉnh thoảng hoa mắt; đại tiện khó, âm
khí không phát triển, đói mà không muốn ăn; khái; thóa thời thấy có cả huyết,
trong bụng nghe bào hao... Bệnh ở gốc Thận. Mạch ở Thái khê tuyệt, thời chết
không thể chữa [49].
Thiếu dương Tư
thiên, hỏa và thấp thắng... Dân mắc bệnh đầu thống, phát nhiệt, ố hàn mà ngược.
Nhiệt phát ra bì phu, bì đau, sắc biến ra vàng hoặc đỏ, gây nên chứng thủy,
mình, mặt phù, thũng, bụng đầy vượt, phải ngửa lên mà thở, kiết lỵ đỏ hoặc
trắng, mụn lở, ho, nhổ ra huyết, phiền Tâm, trong Hung nhiệt, quá lắm thời cừu,
nục. Bệnh gốc ở Phế. Mạch ở huyệt Thiên phủ tuyệt, sẽ chết, không chữa được
[50].
Dương minh Tư
thiên, bị Táo râm nó thắng... Dân mắc bệnh tả khư hiếp đau, khí hàn tràn lan,
cảm thành bệnh ngược, khái, trong bụng sôi, tiết tả, như phân cò, Tâm huyết bạo
thống, không thể trở mình, ách can, mặt nhờm, yêu thống. Đàn ông đồi sán, đàn
bà Thiếu phúc đau, mắt mờ và toét, lở láy. Bệnh gốc ở Can mạch ở Thái sung
tuyệt, sẽ chết không thể chữa [51].
Thái dương Tư
thiên, bị hàn râm nó thắng. Dân mắc bệnh, huyết biến ở trong, phát thành ung
dương (mụn, lở), quyết, tâm thống, ẩu huyết, huyết tiết, cừu, nục, hay bị
(thương, cảm), thỉnh thoảng chóng mặt, ngã ngất, hung, phúc, mãn, lòng bàn tay
nóng, khủyu tay co lại, nách sưng, trong lòng lạnh lẽo khó chịu, bụng hiếp, vị
quản đều không yên, mặt đỏ, mắt vàng, hay ợ, họng khô. Quá lắm thời sắc mặt đen
sạm, khát, muốn uống nước. Bệnh gốc ở Tâm, mạch ở huyệt Thần môn tuyệt sẽ chết,
không thể chữa [52].
Đó chính là: chỉ
xét ở động khí, thời sẽ biết được năm Tàng ra sao.
Hoàng Đế hỏi:
Điều trị như thế
nào? [54]
Kỳ Bá thưa rằng:
Về khí Tư thiên,
bị phong râm nó thắng, bình bằng vị tân và lương, tá bằng vị khổ và cam, dùng
vị cam để làm cho hoãn, dùng vị toàn để làm cho tả (1) [55].
Bị nhiệt râm nó
thắng, bình bằng vị hàm và hàn, tá bằng vị khổ và cam, dùng vị cam để làm cho
thâu lại (2) [56].
Bị thấp râm nó
thắng, bình bằng vị khổ và nhiệt, tá bằng vị toan và tân, dùng vị khổ để làm
cho táo, dùng vị đạm để làm cho tiết, thấp ở bộ phận trên, quá lắm mà nhiệt,
trị bằng vị khổ và ôn, tá bằng vị cam và tân, để cho hãn ra, thời thôi (3)
[57].
Bị hỏa râm nó
thắng, bình bằng vị toan và lãnh, tá bằng vị khổ và cam, dùng vị toan để thâu
lại, dùng vị khổ để phát ra, lại dùng vị toan để cho phục lại. Cùng một phương
pháp trị chứng nhiệtrâm (4) [58].
Bị táo râm nó
thắng, bình bằng vị khổ và ôn, tá bằng vị toan và tân, dùng vị khổ để hạ xuống
(5) [59]
Bị hàn râm nó
thắng bình bằng vị tân và khíệt, tá bằng vị khổ và cam, dùng vị hàm để tả (6)
[60].
Hoàng Đế hỏi:
Tà khí phản thắng,
điều trị như thế nào? [61].
Kỳ Bá thưa rằng:
Phong tư ở đất,
thanh lại thắng nó, trị bằng toan và ôn, tá bằng khổ và cam, dùng vị tân để
bình [62].
Nhiệt tư ở đáy,
hàn lại thắng nó; trị bằng cam và nhiệt, tá bằng khổ và tân, dùng vị hàn để
bình [63].
Thấp tư ở đất,
nhiệt lại thắng nó, trị bằng vị khổ và lãnh, tá bằng vị hàm và cam, dùng vị khổ
để bình [64].
Hỏa tư ở đất,
nhiệt lại thắng nó, trị bằng vị cam và nhiệt, tà bằng vị khổ và tân, dùng vị
hàm để bình [65].
Táo tư ở đất,
nhiệt là thắng nó: trị bằng vị bình và hàn, tá bằng vị khổ và cam, dùng vị tân
để bình, lấy hòa làm lợi [66].
Hàn tử ở đất,
nhiệt lại thắng nó, trị bằng vị hàm và lãnh, tá bằng vị cam tân, dùng vị khổ để
bình (1) [67].
Hoàng Đế hỏi:
Tà khí lại thắng
khí Tư thiên, thời trị liệu như thế nào? [68]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phong hóa ở trời,
thanh lại thắng nó, trị bằng vị toan và ôn, tá bằng vị cam và khổ [69].
Thấp hóa ở trời,
hàn lại thắng nó, trị bằng vị cam và ô, tá bằng vị khổ, toan và tân [70].
Thấp hóa ở trời,
hàn lại thắng nó, trị bằng vị khổ và hàm tá bằng vị khổ và toan [71].
Hỏa hóa ở trời,
hàn lại thắng nó. Trị bằng vị cam và nhiệt tá bằng bị khổ và tân [72].
Táo hóa ở trời,
nhiệt lại thắng nó. Trị bằng vị tân và hàn, tá bằng vị khổ và cam [73].
Hàn hóa ở trời,
nhiệt lặi thắng nó. Trị bằng vị hàm và lãnh, tá bằng vị khổ, và tân (1) [74].
Hoàng Đế hỏi:
Sáu khí tương
thắng như thế nào? [75]
Thắng của Quyết
âm, sinh ra các chứng: tai ù, đầu váng: trong bụng rộn rực như muốn thổ. Vị
cách như hàn, khí dồn vào khư và hiếp mà thành nhiệt, tiểu tiện vàng và đỏ, Vị
quản thống, dồn lên hai hiếp, trường minh, xôn, tiết, kiết lỵ đỏ hoặc trắng,
quá lắm thời ẩu thổ, cách yết không thông 91) [76].
Thắng của Thiếu
âm, tâm hạ nhiệt, hay đói, dưới rốn rộn rực, khí dẫn lên Tam tiêu, ẩu nghịch,
táo phiền, phúc mãn và thống, đường tiết, tiểu tiện đỏ [77].
Thắng của Thái âm,
hỏa khí uất ở bên trong, mụn lở suốt từ trong ra ngoài. Bệnh ở khư hiếp, quá
lắm thời tâm thống, nhiệt cách lên thành đầu thống, hầu tý, hạng cường. Nếu khí
âm thấp lại thắng ở nửa năm về sau thời, thấp khí uất ở bên trong, hàn khí bách
xuống hạ tiêu, đau suốt từ đỉnh đều đến khoảng lông mày, vị mãn, thiếu phúc
mãn, sống lưng và ngang lưng đều cứng, bên trong khó chịu, hay kiết lỵ, dưới
chân ấm, đầu nặng, ống chân và chân sưng thũng. Chứng ẩm phát ra ở bên trong,
phù thũng từ dưới lên trên (1) [78].
Thắng của Thiếu
dương, nhiệt“khách” ở Vị phiền tâm, tâm thống, mắt đỏ, muốn ẩu, ẩu ra nước
chua, hay đói, tai đau, nước tiểu đỏ, hay sợ, thiềm ngữ, bao nhiệt, tiêu thước,
thiếu phúc thống [79].
Thắng của Dương
minh, khí lạnh phát ra ở trong tả khư hiếp đau, đường tiết, trong là ách tắc
(nghẽn ở cổ), ngoài là đồi sán. Trong bụng khó chịu, ách tắc mà khái [80].
Thắng của Thái
dương, sinh ra chứng hài ngược, hàn quyết vào Vị, tâm thống, âm hành lở mụn,
đau xuống bên háng, huyết mạch đọng rít, hoặc thành chứng huyết tiết (tả ra
huyết), bì phu sưng đau, phúc mãn, ăn kém, nhiệt lại bốc lên, đầu, cổ, thông
đính, não bộ đều đau, mắt như mờ đi, hàn vào hạ tiêu, gây nên chứng nhu tả (đại
tiện nát) [81].
Hoàng Đế hỏi:
Điều trị như thế
nào? [82]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thắng của Quyết
âm, trị bằng vị cam và thanh, tả bằng vị khổ và tân, dùng vị toan để tả [83].
Thắng của Thiếu
âm, trị bằng vị cam và thanh, tả bằng vị khổ và tân, dùng vị toan để tả [84].
Thắng của Thái âm,
trị bằng vị hàm và nhiệt, tá bằng vị tân và cam, dùng vị khổ để tả [85].
Thắng của Thiếu
dương, trị bằng vị tân và hàn, tá bằng vị cam và hàm, dùng vị cam để tả [86].
Thắng của Dương
minh, trị bằng vị toan và ôn, tá bằng vị tân và cam, dùng vị khổ để tiết [87].
Thắng của Thái
dương, trị bằng vị cam và nhiệt, tá bằng vị tân và toan, dùng vị hàm để tả (1)
[88].
Hoàng Đế hỏi:
Sáu kì phục lại,
như thế nào? [89].
Kỳ Bá thưa rằng:
Sự “phục” của
Quyết âm, sinh ra chứng thiếu phúc kiên và mãn, lý cấp bạo thống, quyết tâm
thống, hãn phát, ẩu thổ, muốn ăn mà không nuốt vào được, nuốt vào lại thổ ra.
Gân, xương choáng váng, thanh quyết, quá lắm thời vào Tỳ, thành chứng thực tý,
mà thổ. Mạch ở Xung dương tuyệt, sẽ chết, không chữa được (1) [90].
Phục của Thiếu âm,
nóng nảy phát sinh ở bên trong, phiền táo, cừu sị, thiếu phúc giảo thống (đau
như thất), ách táo “phân chú” có lúc ngừng, khí động ở tả, dẫn lên bên hữu,
khái, bì phu đau, uất mạo không biết, ghê ghê rét run, thiềm vọng, hàn rồi lại
nhiệt, khát mà muốn uống, thiểu khí, cốt nuy, tiểu trường không thông, ngoài là
phù thũng, nhiệtkhi đại hành, sinh ra các chứng phất, chẩn, thương dương, ung
thư, tỏa, trĩ v.v. quá lắm thời phạm vào Phế, khái mà tỵ uyên (trong mũi nước
đặc chảy ra quanh năm, mùi hôi thối). Mạch ở Thiên phủ tuyệt, sẽ chết, không
chữa được (1) [91].
Phục của Thái âm,
sinh ra mình nặng, bụng đầu, uống ăn không tiêu, âm khí thượng quyết, trong
bụng khó chịu, chứng ẩm phát sinh ở trong, thành chứng khái và suyễn có tiếng,
đỉnh đầu đau và nặng, càng thêm chạo khiết (tay chân vật vã, co quắp) nóân ọe
li bì, im lặng, thổ ra nước trong. Quá lắm thời vào Thận, khiến tả vô độ. Mạch
Thái khê tuyệt, thời chết, không thể chữa (1) [92].
Phục của Thiếu
dương, sinh ra các chứng kinh, khiết, khái, nục, tâm nhiệt, phiền táo, tiện
xác, ghê gió, quyết khí dẫn lên, mặt nhồm như bắt bụi, mi mắt hay giật, hỏa khí
phát ở bên trong dẫn lên thành chứng lở nát trong miệng, ẩu nghịch, huyết giật,
huyết tiết, rồi phát ra chứng ngược, ố hàn run rẩy. Hàn cực lại nhiệt, gây nên
ách lạc khô ráo, khát muốn uống nước lã, sắc mặt biến ra vàng và đỏ, thiếu khí,
mạch nuy, hóa làm chứng thủy, gây thành thủy thủng. Quá lắm thời vào Phế, khái
và đại tiện ra huyết. Xích trạch tuyệt thời chết không thể chữa được (1)[93] .
Phục của Dương
minh, sẽ sinh ra các bệnh: đau ở khư hiếp khí về bên tả, hay thở dài, quá lắm
thời Tâm thống, bĩ mãn, phúc trướng mà tiết tả, nóân ra nước đắng, khái uế,
phiền tâm bệnh ở trong cách, đầu nhức, quá lắm thời vào can, sinh ra chứng kinh
hãi, co gân, mạch ở Thái xung tuyệt, sẽ không chữa được (1) [94].
Phục của Thái
dương, quyết khí dẫn lên, Tâm và Vị sinh hàn; Hung cách không lợi, tâm thống,
bĩ, mãn, đầu thống, hay bị, có khi ngã ngất, ăn sút, yêu chùy đau, co duỗi
không tiện, đau ở Thiếu phúc, rút xuống Dịch hoàn, lây lên cả yêu, tích, xung
lên Tâm, nhổ ra nước trong, hay ọe hay ợ, quá lắm thời vào Tâm, hay quên, hay
bi. Mạch ở Thầu môn tuyệt, sẽ chết, không thể chữa (1) [95].
Hoàng Đế hỏi:
Phương pháp điều
trị như thế nào? [96]
Kỳ Bá thưa rằng:
Phục của Quyết âm,
trị bằng vị toan và hàn, tá bằng vị cam và tân, dùng vị toan để làm cho tả,
dùng vị cam để làm cho hoãn [97].
Phục của Thiếu âm,
trị bằng vị hàm và hàn, tá bằng vị khổ và tân: dùng vị Cam để làm cho tả, dùng
vị toan để làm cho thâu; dùng vị khổ để làm cho phát, dùng vị hàm để làm cho
nhuyễn [98].
Phục của Thái âm,
trị bằng vị khổ và nhiệt, tá bằng vị toan và tân, dùng vị khổ để làm cho tả,
làm cho táo, làm cho tiết [99].
Phục của Thiếu
dương, trị bằng vị hàm và lãnh, tá bằng vị khổ và tân, dùng vị hàm để làm cho nhuyễn,
dùng vị toan để làm cho thâu, dùng vị tân và khổ để làm cho phát. Phát không
lánh xa nhiệt, không phạm ôn, lương... Phục ở Thiếu âm cũng một phương pháp
điều trị [100].
Phục của Dương
minh, trị bằng vị tân và ôn, tá bằng vị khổ và cam, dùng vị khổ để làm cho
tiết, làm cho hạ, dùng vị toan để bổ [101].
Phục của Thái
dương, trị bằng vị hàm và nhiệt, tá bằng vị cam và tân, dùng vị khổ để làm cho
kiên (1) [102].
Phàm trị về cái
khí thắng và phục, hàn thời làm cho nhiệt, nhiệt thời làm cho hàn, ôn thời làm
cho thanh, thanh thời làm cho ôn, tán thời thâu lại, uất thời tán đi, táo thời
làm cho nhuận, cấp thời làm cho hoãn, kiên thời làm cho nhuyễn, nhuế (mềm) thời
làm cho kiên, suy thời bổ thêm vào, cương thời tả bớt đi... Phải làm cho chính
khí được yên, phải thanh, phải tĩnh... thời bệnh khí giảm đi, rút về bản vị, đó
là đại thể của phương pháp điều trị [103].
Hoàng Đế hỏi:
Khí chia về trên,
dưới như thế nào? [104]
Kỳ Bá thưa rằng:
Từ nửa mình trở
lên, có ba khí, thuộc về bộ phận của trời, thiên khí làm chủ, từ nửa mình trở
xuống, có ba khí thuộc về bộ phận của đất, địa khí làm chủ. Lấy danh để đặt tên
cho khí, lấy khí để nhận biết thuộc xứ nào, rồi sẽ nói đến bệnh. “Bán” (nửa),
tức là chỉ về Thiên khu (1) [105].
Cho nên ở trên
thắng mà ở dưới cũng mắc bệnh, thời lấy thuộc về “địa” để đặt tên, ở dưới thắng
mà ở trên cũng mắc bệnh, thời lấy thuộc về “thiên” để đặt tên (1) [106].
Như nói là “thắng”
đến, tức là “báo khí” khuất phụ mà chửa phát, nói “phục” đến, thời không cần,
vì trời đất mà khác danh, cũng đều coi như phục khí ở đâu để lập thành trị pháp
(2) [107].
Không có nhận xét nào: