CHƯƠNG 76 : THỊ THUNG DUNG LUẬN
Lôi Công hỏi rằng:
Can hư, Thận hư,
Tỳ hư… Đều khiến con người thân thể nặng nề khó chịu. Nên dùng độc dược, thích
và cứu hoặc dùng biêm thách, hoặc dùng thanh dịch v.v… Vậy mà có khi khỏi, có
khi không khỏi, là vì sao? [1]
Hoàng Đế dạy rằng:
Tỳ mạch hư mà phù,
tựa phế; Thận mạch tiểu và phù tựa Tỳ; Can mạch cấp và trầm tựa Thận… Đó đều là
những mạch chứng mà y giả dễ nhầm. Chỉ có “thung dung” nhận kỹ, mới có thể biết
được. Đến như ba Tàng thổ, mộc, thủy cùng ở bộ phận dưới, có gì mà không phân
biệt được. [2]
Lôi Công hỏi rằng:
Mạch phù mà Huyền,
án vào rắn như thạch (đá) xin cho biết đó là bệnh gì? [3]
Hoàng Đế dạy rằng:
Mạch phù mà Huyền,
đó là bởi Thận bất túc; Trầm mà thạch, là do Thận khí bị ngừng mắêc ở bên
trong; bệnh nhân khiếp nhược, thiểu khí… là do thủy đạo không thông lợi, khiến
cho hình khí bị tiêu thước; khái khấu và phiền oan, là do Thận khí nghịch lên.
Đó là khí ở một người, và bệnh chỉ phạm vào một Tàng. [4]
Lôi Công hỏi rằng:
Giờ đây có người,
tứ chi rã rời, khái huyết tiết… Ngu này nhận là thương Phế, thiết mạch thấy
phù, đại mà khẩn… Ngu không dám chữa. Thô công dũng biêm thạch mà khỏi bớt; lại
làm cho xuất huyết, huyết ra được mà mình thấy nhẹ nhàng… Vậy là bệnh gì? [5]
Hoàng Đế dạy rằng:
Mạch phù, đại và
hư là do Tỳ khí tuyệt ở bên ngoài, bỏ Vị phủ, trở ra kinh của Dương minh. Vì
hai hỏa không thể thắng được ba thủy, vì vậy nên mạch loạn mà không thường. Tứ
chi rã rời là do tinh khí của Tỳ không đạt ra tới tứ chi; suyễn và khái, là do
thủy khí dồn lên Dương minh; huyết tuyết, là do mạch cấp, huyết không dẫn hành
được. Như đoán là thương Phế, thời nhằm lắm. [6]
Nếu là thủy tà
dương Phế thời do Tỳ khí không giữ; Vị khí không thanh; Kinh khí không sai
khiến được; chân tàng hoại quyết, kinh mạch bàng tuyệt, năm Tàng lậu tiết,
không nục thời ẩu. Vậy đối với chứng hậu trên kia, khác hẳn. [7]
Thiên 77 :SƠ NGŨ QUÁ LUẬN
Hoàng Đế nói rằng:
Phàm trước khi
chẩn mạch, nên hỏi có phải là trước quí mà sau hèn? Nếu vậy, thời dù không
trúng tà, bệnh do trong sinh ra. Bệnh đó gọi là Thoát doanh. Nếu trước giàu mà
sau nghèo… Bệnh đó gọi là Thất tinh. Năm khí lưu niên, bệnh nó dồn lại. Y công
chẩn bệnh, không biết bệnh danh. Đó là một lỗi. [1]
Phàm muốn chẩn
bệnh, phải hỏi sự uống, ăn, cư xử, bạo lạc hay bạo khổ, trước xướng sau khổ,
những trường hợp đó đều làm thương tinh khí; tinh khí kiệt tuyệt, khiến cho
hình thể rã rời. Bạo nộ thời dương Aâm, bạo hỷ thời thương Dương, quyết khí
thượng hành, mạch mãn thời hình khứ. Ngự y chẩn bệnh, không biết như vậy. Đó là
hai lỗi. [2]
Phàm chẩn bệnh,
phải biết so sánh những bệnh Kỳ hằng, biết được là giỏi. Bệnh đó không biết,
sao được là biết chẩn. Đó là ba lỗi. [3]
Chẩn bệnh phải chú
ý vào “tam thường” (tức là tinh, khí, thần). Vậy phải hỏi trước quí sau tiện?
Hoặc mới bị thất phế, bị nguy nan? Nếu bị những trường hợp như vậy, thời tinh
thần sẽ bị thương; dù không phạm phải tà khí, cũng tất sinh ra bì tiêu, cân
khuất, khó lòng sinh tồn. Y giả không xét ở chỗ đó mà chữa liều, đó là bốn lỗi.
[4]
Phàm chẩn bệnh lại
phải biết khí huyết suy vượng như thế nào. Như người đương giàu có mà bị sa
sút, thời thần hồn bị thương. Vì đó, chủ của Tâm là Mạch, chủ của Can là Cân,
như bị cắt đứt… Vậy phải tìm ở nguyên nhân chứng hậu để điều trị. Nếu bỏ lỡ, đó
là năm lỗi. [5]
Cho nên nói rằng:
thánh nhân trị bệnh, phải biết rõ lẽ Aâm Dương của trời đất, sự kinh hỷ của bốn
mùa… Rồi do đó mà hoặc dùng châm, cứu, biêm thạch và độc dược; lại phải biết rõ
bản thủy của bệnh mà tham xét với “bát chính, cửu hậu…” Thời bệnh không còn đâu
xót được nữa(1). [6]
THIÊN 78 : TRƯNG TỨ THẤT LUẬN
Hoàng Đế dạy Lôi
Công rằng:
Kinh mạch mười
hai, Lạc mạch ba trăm sáu mươi lăm… Những cái đó, phần nhiều mọi người điều
hiểu và các Y giả cũng đều biết tuân theo. Nhưng sở dĩ trị liệu vẫn không được
mười vẹn mười, chỉ vì tinh thần không chuyên, chí ý không vững, khiến cho trong
ngoài lẫn lộn, mới gây nên tai vạ. [1]
Vậy, nếu chẩn mà
không biết cái lý nghịch thuận của Aâm Dương, đó là một điều lỗi. [2]
Chưa hiểu thấu
những nghĩa sâu xa của thầy dạy, mà đã dùng liều biêm thạch, châm cứu… Khiến
cho mang hận về sau. Đó là hai điều lỗi. [3]
Không xét rõ là
sang hay hèn, giàu hay nghèo, thân thể ấm hay lạnh, uống ăn đủ hay thiếu, tính
người dũng hay khiếp… Các điều đó đều có thể là nguyên nhân của bệnh cả. Thế mà
Y giả lại không biết, đó là ba điều lỗi. [4]
Chẩn bệnh không
biết hỏi đến các nguyên nhân như vừa thuật trên, chỉ nhắm mắt án tay ngay vào
Thốn khẩu, rồi nói hươu, nói vượn, dối người, dối mình. Đó là bốn điều lỗi. [5]
Hỡi ơi! Đạo trời sâu
xa, ngành ngọn bao la, gần như gan tấc, lớn lên hải hà, nếu không học hỏi, làm
thầy được a? [6]
THIÊN 79 : ÂM DƯƠNG LOẠI LUẬN
Hoàng Đế nói rằng:
Tam dương là
“Kinh” Nhị dương là Duy, Nhất dương là du bộ. Nhân đó biêt chung thủy của năm
Tàng [1]
Tam dương là Biểu,
Nhị âm là Lý, Nhất Âm là chí tuyệt (cuối cùng), hợp với hối sóc, sẽ đầy đủ cái
chính lý về sự sinh trưởng [2]
Hoàng Đế hỏi:
Về Tam dương, Thái
dương là Kinh. Tam dương mạch đến Thủ Thái âm, Huyền, Phù, mà không Trầm. [3]
Phàm gọi là Nhị
dương, tức là Dương minh. Mạch đến Thủ Thái âm, Huyền mà Trầm, Cấp, không Cổ,
vì nhiệt phát bệnh, sẽ chết [4]
Nhất dương là
Thiếu dương. Mạch đến Thủ Thái âm, trên liền với Nhân nghinh, Huyền, Cấp không
dứt… Đó là bệnh ở Thiếu dương. Chuyển về âm thời chết [5]
Tam âm là một cơ
quan chủa của sáu Kinh. Nó giao với Thái dương, nếu mạch phụ, (Cổ), không phù
thế là không liên lạc được với Tâm và Thận. [6]
Nhị âm đến Phế,
khí sẽ về Bàng quang, ngoài liền với Tỳ, Vị [7]
Nhất âm đến một
mình, kinh tuyệt, khí phù không “Cổ”, và Câu mà Hoạt [8]
Sáu mạch đó, lúc
là âm, lúc là Dương, thay đổi giao hỗ với nhau, thông với năm Tàng, hợp với Âm
Dương, đến trước là chủ, đến sau là khách. [9]
Nhị dương, Nhất
âm, chủ bệnh, không thắng, Nhất âm, mạch nhuyễn mà động, chín khiếu đều trầm
[10]
Tam dương, Nhất
âm; Thái dương mạch thắng, Nhất âm không thể ngăn, bên trong làm rối loạn năm
Tàng, bên ngoài hiện ra chứng kinh, hãi [11]
Nhị âm, Nhị dương,
bệnh ở Phế. Thiếu âm mạch Trầm, thắng Phế, thương Tỳ, ngoài thương tứ chi. [12]
Nhị dương đều đến,
bệnh ở Thận, chửi mắng đi liền, điên tật và cuồng [13]
Nhị âm, Nhất
dương; bệnh sinh ra bởi Thận. Âm khí dẫn lên phía dưới Tâm Quản; Không khiếu
vít lấp không thông, tứ chi rã rời [14]
Nhất âm, Nhất
dương mạch Đại, thế là Âm khí đến Tâm, trên dưới không thường, ra vào không
biết, cổ họng khô ráo. Bệnh tại Tỳ thổ [15]
Nhị dương, Tam âm,
đều có cả chí âm. Âm không tới được với Dương, Dương không tới được với Aâm.
âm, Dương đều tuyệt, Phù là huyết giả, Trầm là ung nùng. [16]
Âm Dương đều
thịnh, dưới tới Âm Dương, trên từ tỏ rõ, dưới tới tờ mờ, chẩn quyết sống chết,
hợp với đầu năm [17]
THIÊN 80 : PHƯƠNG THỊNH SUY LUẬN
Lôi Công hỏi rằng:
Về khí nhiều ít,
thế nào là nghịch? Thế nào là tùng? [1]
Hoàng Đế dạy rằng:
Dương theo tả, Aâm
theo hữu lão theo trên, thiếu theo dưới. Vì vậy, Xuân hạ theo về Dương đời
sống, theo về Thu Đông thời chết. Trái lại, thời nào theo về Thu Đông là sống.
Vì vậy, khí dù nhiều ít mà nghịch, đều thành chứng quyết [2]
Chứng quyết thuộc
Thiếu âm, khiến người mộng càn quá lắm thời mê. [3]
Phế khí hư, thời
khiến người mộng thấy bạch vật (các vật trắng, thuộc loài kim), thấy chém người
máu chảy, nếu đắc thời, thời mộng thấy binh chiến [4]
Thận khí hư thời
khiến người mộng thấy thuyền và người bị đắm đuối; nếu đắc thời, thời mộng nằm
trong nước, như bị sợ hãi. [5]
Can khí hư thời
mộng thấy cỏ cây nảy nở; nếu đắc thời, thời mộng tựa dưới gốc cây không dám
đứng dậy. [6]
Tâm khí hư mộng
thấy đi cứu đám cháy; nếu đắc thời, thời mộng thấy lửa sáng rực trời. [7]
Tỳ khí hư thời
mộng thấy uống ăn không đủ; nếu đắc thời, thời mộng đắp trường lợp nhà. [8]
Đó là thuộc về năm
Tàng khí hư, Dương khí hưu dư, Âm khí bất túc. Vậy hợp với năm chẩn, điều với
Âm Dương, để xét về Kinh mạch [9]
Vì vậy, chẩn cóđại
phương (phép lớn). Ngồi đứng có thường, ra vào có lối, để giúp ích cho thần
minh; phải rất thanh tĩnh, xem suốt trên dưới, coi ở bát chính, xét năm trung
bộ, án mạch động tĩnh; theo riêt để nhân về Hoạt, Sắc, Hàn, Ôn; đạo có xét rõ
mới được dài lâu. Và tới được cõi mười vẹn cả mười (thập toàn) [10]
THIÊN 81: GIẢI TINH VI LUẬN
Lôi Công hỏi rằng:
Khốc (khoc thành
tiếng) khấp (khóc ngầm) mà lệ (nước mắt) không ra hoặc ra mà ít “thế” (nước
mũi) là vì sao? [1]
Hoàng Đế dạy rằng:
Tâm là chuyên tinh
của năm Tàng. Nó khai khiếu lên mắt, hiện ra săc là phần tươi tốt của Tâm. Vì
vậy, phàm người có đức, thời khí hoà hiện ra mắt; có việc lo buồn thời rầu rĩ
tỏ ra sắc. [2]
Vì vậy, bi ai thời
“Khấp hạ” (khóc có lệ rơi). Khấp hạ là do Thủy sinh. Thủy do tông mạch; tích
thủy tưc là chí âm. Chi âm là tinh của Thận. Sở dĩ lệ không rơi, là do tinh nó
cũng giằng co, nên Thủy không xuất được. [3]
Nghĩ như: tinh của
Thủy là chí, tinh của Hỏa là thần; Thủy hỏa tương cảm, thần chí đều bi, do đó
Thủy mới từ trong mắt chảy ra. Cho nên “ngạn” có nói “tâm bi”, gọi là “chí bi”.
Vì chí với tâm tinh, đều dồn lên mắt. [4]
Vì vậy, đều bi,
thời thần khí truyền vào Tâm tinh, nên không truyền lên chí, mà chí độc bi, cho
nên khấp mà lệ ra [5]
“Thế” phát sinh ra
tự Não (óc). Não thuộc Aâm; Tủy, là một chất làm cho đầy ở trong xương. Não
thấm (rích) ra thành Phế. Chí là chủ của xương. Vì vậy, Thủy chảy mà Thế theo,
là nó theo về đồng loại. [6]
“Thế” với “khấp”
(tức lệ) ví như anh với em, nếu mạch “Cấp” thời đều chết, nếu sống thời đều
sống. Nếu chí mà sớm bi, thời “Thế” và “Khấp” sẽ đồng thời đằm đìa . [7]
Lôi Công hỏi rằng:
Có người khốc khấp
mà “Lệ” không ra; có khi “Lệ” ra mà ít “Thế”, là vì sao? [8]
Hoàng Đế dạy rằng:
Khấp mà lệ không
ra, là do khốc mà không thật bi. Không khấp là do thần không bi; thần không bi
thời chí không bi. Aâm Dương cũng giằng co nhau, khấp (lệ) sao ra một mình
được. Đại phàm, về chí mà bị, thời uất uất khí xung âm, xung âm thời chí rời
khỏi mắt; chí đã rời thời thần không giữ tinh. Tinh thần rời khỏi mắt, thời
“thế” và khấp” đồng thời ra (2). [9]
Lôi Công không nhớ
ở Kinh (Linh Khu) dạy ư? Phàm chứng Quyết, thời mắt không còn trong thấy. Vì
người mắt chứng Quyết, thời Dương khí dồn lên trên, Aâm khí dồn xuống dưới.
Dương khí dồn lên trên thời hỏa sáng một mình; Aâm khí dồn xuống dưới thời chân
lạnh và bụng trướng, xem đó thời biết “một thủy” không thắng được “năm hỏa”,
cho nên thành mục manh (1). [10]
Vì vậy, ra gió
thời lệ rơi. Bởi gió nó thổi vào mắt khiến cho Dương khí không giữ với tinh,
một mình Dương hỏa thiêu vào mắt, nên mới lệ rơi (1). [11]
Muốn so sánh, thời
như: hỏa mạnh sinh phong sẽ biến thành mưa… âu cùng một loài vậy (2).
Không có nhận xét nào: